Bài làm
Chiến
tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Nhật Bản những thiệt hại to lớn về người
và của. Nếu như Nhật Bản trước chiến tranh là một nước công nghiệp phát triển,
một trong các cường quốc hàng đầu thế giới thì sau chiến tranh, cường quốc ấy bị
tàn phá nặng nề, gần 3 triệu người chết và bị thương, tổng giá trị thiệt hại
lên tới 61,3 tỷ yên. Sau khi chiến tranh kết thúc, nền kinh tế bị lâm vào khủng
hoảng nghiêm trọng: năng lượng thiếu, lạm phát tăng, 13,1 triệu người không có
việc làm.
Tuy
nhiên, trong giai đoạn 1945 – 1973 là giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản khôi phục
và phát triển một cách “ thần kỳ”.
Ngay
trong những năm đầu sau chiến tranh, dưới sự kiểm soát của quân đội Mỹ, một số
cải cách lớn về kinh tế - xã hội ở Nhật Bản đã được thực hiện.
Việc
đầu tiên đó là giải thể các Zaibatsu, nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự của Nhật
Bản, xóa bỏ quyền kiểm soát của một số công ty lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản.
Cải tổ các công ty theo hướng phi tập trung hóa. Biện pháp này tạo ra sự cạnh
tranh mạnh mẽ trong tất cả các ngành công nghiệp và thúc đẩy cơ chế thị trường
hoạt động mạnh mẽ, tự do hóa nền kinh tế.
Cải
cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được giữ lại một phần ruộng đất nhất định,
tối đa là 5 ha, sau giảm xuống còn 1 ha. Số còn lại nhà nước sẽ mua lại và chuyển
nhượng cho những nông dân không có ruộng đất.
Giải
quyết vấn đề việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, tăng lương cho công nhân.
Để thực hiện dân chủ hóa lao động, trong khoảng thời gian từ 1945 – 1947 có ba
đạo luật được ban hành: Luật công đoàn(1945), Luật tiêu chuẩn lao động(1947) và
Luật điều chỉnh các quan hệ lao động.
Những
cải cách trên đây tạo điều kiện cho Nhật Bản khôi phục kinh tế và chuyển hướng
từ nhà nước quân sự sang nhà nước hướng phát triển kinh tế.
Tuy
nhiên trước năm 1948, việc khôi phục kinh tế diễn ra chậm chạp và khó khăn. Một
mặt vì kinh tế bị tàn phá nặng nề, thiếu vốn, nguyên liệu,… mặt khác, người Mỹ
đã thực thi một chính sách cứng rắn với Nhật Bản. Song từ tháng 10/1948, lập
trường của Mỹ đối với Nhật Bản đã có sự thay đổi căn bản. Nhật Bản đã được Mỹ
nâng đỡ trở thành đồng minh đắc lực trong chính sách xâm lược của Mỹ ở Châu Ấ -
Thái Bình Dương. Kể từ tháng 4/1948, công cuộc khôi phục kinh tế của Nhật Bản
diễn ra ngày càng thuận lợi. Đến năm 1951, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Nhật
Bản như tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu
thực tế đã bằng và vượt mức trước chiến tranh.
Trong
khoảng 20 năm sau chiến tranh (1952-1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với
nhịp độ rất nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát
triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản. Từ một nước đứng dậy từ trong đống
tro tàn của chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trong
thế giới tư bản sau Mỹ. Từ 1953 -1973, tốc độ tổng sản phẩm quốc dân thực tế của
Nhật Bản thường ở mức cao nhất trong các nước tư bản. Đến năm 1968, tổng sản phẩm
trong nước của Nhật Bản đã vượt các nước Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia,
Canada,...
Tốc
độ phát triển công nghiệp hằng năm thời kỳ 1950 – 1960 là 15,9%, từ 1960 -1969
là 13,5%. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên
56,4 tỷ USD năm 1969. Đúng một trăm năm sau cải cách Minh Trị, Nhật Bản đã dẫn
đầu các nước tư bản về tàu biển, xe máy, máy khâu, máy ảnh, ti vi; đứng thứ hai
về sản lượng thép, ô tô, xi măng, sản phẩm hóa chất, hàng dệt, …
Một
số ngành công nghiệp then chốt đã tăng lên với nhịp độ rất nhanh. Mặc dù Nhật Bản
hầu như không có mỏ dầu nhưng đã đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu
thô, riêng năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu thô, công nghiệp sản xuất sắt
thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn, năm 1973 là 117 triệu tấn. Năm 1960, công nghiệp
ô tô Nhật Bản còn đứng thứ 6 trong thế giới tư bản, đến năm 1967 vươn lên hàng
thứ hai sau Mỹ. Năm 1968 Nhật Bản sản xuất được 2 triệu ô tô. Công nghiệp đóng
tàu đến những năm 70 chiếm trên 50% tổng số tàu biển lớn và có 6 trong 10 nhà
máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản. Sự phát triển nhanh của một số ngành
kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ trọng các ngành
nông, lâm, ngư nghiệp giảm đi đáng kể, các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng
nhanh.
Giao
thông vận tải, nhất là phương tiện vận chuyển tăng nhanh. Đến đầu thập kỷ 70,
Nhật Bản đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển.
Ngoại
thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đến năm 1971
kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 USD đến 43,6 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu
tăng 30 lần, xuất khẩu tăng 21 lần.
Sự
phát triển thần kỳ của Nhật Bản trong giai đoạn 1952 – 1973 bắt nguồn từ một số
nguyên nhân cơ bản như:
Thứ
nhất là nhân tố con người, phải nói rằng chế độ giáo dục của Nhật Bản khá phát
triển và hoàn thiện. Người Nhật Bản rất chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân
lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật, công nghệ mới. Đội
ngũ cán bộ, khoa học kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, có chất lượng cao đã
góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất
nước. Giới quản lý và kinh doanh của Nhật Bản được đánh giá là những người sắc
xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh,
đem lại thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên trường quốc tế.
Thứ
hai, Nhật Bản tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất của
Âu – Mỹ bằng cách nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật, mua các phát minh, sáng chế. Bằng
cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học – kỹ thuật của
Nhật Bản đã có bước phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt
trình độ cao về tự động hóa, trình độ sử dụng máy vi tính trong các ngành sản
xuất… Đó là những nhân tố tác động rất mạnh đến tốc độ phát triển kinh tế của
Nhật Bản sau chiến tranh.
Thứ
ba, Nhật Bản chú trọng điều tiết kinh tế của Nhà nước. Ngay sau chiến tranh,
Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện một loạt biện pháp để đẩy mạnh tự do hóa nền
kinh tế, kích thích kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường kết hợp với sự điều
tiết của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã tạo ra
môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng bằng hệ thống pháp luật và khả
năng duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế.
Sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế có tác dụng chống đỡ khủng
hoảng, tạo ra những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế tăng trưởng cao.
Thứ
tư, Nhật Bản đã mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Nhờ cải cách ruộng
đất, hình ảnh chủ trang trại kinh doanh nhỏ đã mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ
thuật, sử dụng máy móc công nghệ tiên tiến. Do đó, nông nghiệp nông thôn tạo ra
thị trường rộng lớn cho sản xuất phát triển. Đồng thời Nhật Bản tìm cách xâm nhập
vào thị trường thế giới như tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa nhờ giảm chi phí
sản xuất và chú trọng chất lượng sản phẩm, xây dựng đội ngũ thương nhân có năng
lực, nhiều kinh nghiệm, thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt…
Thứ
năm, Nhật Bản đã kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng. Đó là sự liên kết,
hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế hiện đại và khu vực truyền thống. Khu vực
kinh tế hiện đại bao gồm các công ty lớn với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, lượng
vốn đầu tư lớn, sử dụng lao động suốt đời, tiền lương cao theo thâm niên, điều
kiện làm việc tốt. Khu vực truyền thống chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, sử dụng
kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao động hợp đồng hoặc theo thời vụ, tiền lương và
điều kiện làm việc thấp kém. Khi nền kinh tế lâm vào khó khăn, khu vực truyền
thống sẽ trở thành “ đệm giảm xóc “ cho các khu vực hiện đại. Với cấu trúc kinh
tế hai tầng, nguồn lao động dư thừa và công nghệ lạc hậu sau chiến tranh được sử
dụng hợp lý và có hiệu quả.
Thứ
sáu, Nhật Bản duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu
quả cao. Nhật Bản thời kỳ này được coi là một nước có tỉ lệ tích lũy vốn cao nhất
trong các nước tư bản phát triển. Đây là một trong những nhân tố quyết định nhất,
bảo đảm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ cao. Nhật Bản không phụ
thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Chín phủ giao cho Bộ Tài chính quản lý và
kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn đó. Nhật Bản sử dụng vốn một
cách rất táo bạo và có hiệu quả. Trong sử dụng vốn, Nhật Bản đầu tư vào những
ngành sản xuất lớn, hiện đại và có hiệu quả cao. Qúa trình tích tụ và tập trung
sản xuất diễn ra rất nhanh chóng, đạt trình độ và quy mô quốc tế. Nhật Bản đã
nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ thuật công nghệ
hiện đại.
Thứ
bảy, Nhật Bản đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác. Sau 3 năm chiếm đóng và
kiểm soát Nhật Bản, năm 1948 Mỹ đã chuyển giao quyên quản lý kinh tế và xã hội
cho Chính phủ Nhật Bản. Bắt đầu từ đây, mối quan hệ Mỹ- Nhật được phục hồi và
phát triển nhanh chóng. Đồng thời Nhật Bản có xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác
và nhất thể hóa kinh tế tư bản chủ nghĩa, xu thế hoàn hoãn và hợp tác của các
công ty độc quyền quốc tế…
Như
vậy, chúng ta có thể thấy rằng, trong giai đoạn 1945 – 1973, nền kinh tế Nhật Bản
đã phục hồi và phát triển nhanh chóng, vươn lên trở thành một trong các nền
kinh tế hàng đầu thế giới. Sự phát triển kinh tế thần kỳ đó là sự kết hợp khéo
léo giữa “công nghệ phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”.
Nhật Bản luôn là
quốc gia đi đầu ở Châu Á, nhưng câu chuyện về Nhật Bản luôn là những bài học
quý báu cho dân tộc ta. Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản đã giúp chúng ta rút
ra được nhiều bài học quý báu. Đó là bài học về nhân tố con người, con người
luôn là một nhân tố quan trọng, có thể vượt lên trên tất cả. Đồng thời, để có một
nền kinh tế phát triển, chúng ta cần duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử
dựng vốn đầu tư hiệu quả; tiếp cận, ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học
kỹ thuật; chú trọng đến vai trò điều tiết của Nhà nước; mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước
và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế…
TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
bạn có thể liệt kê giúp mình các Zaibatsu được không ? mình cảm ơn
Trả lờiXóaEm cám ơn, bài rất hay ạ ^^
Trả lờiXóa