Ký ức thời sinh viên

Ký ức thời sinh viên

Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2013

Hồng ân 2012 - Đội máu Ngoại giao

Hồng ân 2012 - ký ức đọng lại

Chiều dần buông xuống. Một ngày cuối tuần buồn kết thúc cũng là lúc một chương trình hoành tráng, quy mô của Đội máu Ngoại giao bắt đầu. Chương trình mang một cái tên rất đỗi thân thương và gần gũi: “Hồng Ân”. Chương trinh tổ chức nhằm tri ân và nói lời cảm ơn đến các anh chị trong hội Bô lão – những người đã dìu dắt K38 trong suốt thời gian qua. Đây cũng là lần đầu tiên chương trình được tổ chức dưới sự thực hiện của K38 vậy nên chương trình dường như vẫn còn khá xa lạ với mọi người. Tuy nhiên với sự chuẩn bị công phu, kĩ lưỡng từ rất lâu nên chương trình diễn ra rất thành công và để lại nhiều cảm xúc trong mỗi thành viên nhà Máu.
Chương trình được mở đầu bằng một màn vui chơi tập thể rât hay và sôi động. Tiếp đến là những dòng tâm sự, những lời muốn nói mà K38 đã ấp ủ trong suốt một năm hoạt động cùng với các anh chị trong Đội máu mà chưa có dịp thổ lộ. Dòng tâm sự của bạn nào cũng tràn đầy yêu thương và đôi khi cũng đã có những giọt nước mắt đã rơi. Giọt nước mắt thấm qua từng trang giấy và ngấm vào trái tim của các thành viên nhà Máu. Cả không gian dường như nín lặng mỗi khi giọng đọng của hai MC dễ thương Huyền Nga và Ku cất lên. Và có những thành viên trong Đội máu đã không cầm được nước mắt, vị Đội trưởng kính mến và các anh chị trong hội Bô lão của chúng ta cũng đã phải rơi lệ. Mặc dù những thành viên hội Bô lão phần lớn là người rất ít khóc thế nhưng trước những tình cảm của các em K38 gửi tặng thì không thể nào cầm được nước mắt. giọt nước mắt chứa chan, giọt nước mắt nghĩa tình, giọt nước mắt đã khẳng định được sự gắn bó chặt chẽ của Đội máu Ngoại giao.
Nước mắt đã rơi chưa kịp lau khô thì những tiết mục văn nghệ bằng 6 thứ tiếng của K38 lại làm cho không khí thay đổi. Có những tiết mục chưa được thành công như mong muốn thế nhưng K38 đã hát lên bằng cả trái tim mình. Vậy nên tiết mục nào cũng trở nên hay và rất đặc sắc khi nhận được những tràng pháo tay không ngớt. Đúng là một con người nhà Máu lại mang trong mình trái tim Ngoại giao, vậy nên lửa lúc nào cũng cháy rực trong tim.
Nói yêu anh chị thôi chưa thể nói lên hết được tình cảm của mình, K38 đã tặng các anh chị những món quà được trang trí rất đẹp mắt. K38 đã gói trọn tình cảm của mình vào trong những món quà đó để gửi đến các anh chị như một lời tri ân sâu sắc. Chưa dừng lại ở đó, chương trình còn có một phần đoán hình các anh chị trong các đoạn video. Kết thúc mỗi đoạn video là những tràng cười không ngớt. Mỗi người mỗi cá tính, mỗi phong cách đã tạo nên một gia đình nhà Máu muôn màu và nó đã được khái quát trong từng đoạn video.
Chương trình “Hồng Ân” kết thúc bằng một bữa ăn nhẹ nhưng rất vui vẻ, ấm áp và những giai điệu thân thương lại được cất lên. Qua chương trình này, tinh thần đoàn kết của nhà Máu lại càng thêm thắm thiết hơn. Chương trình cũng là dịp để các em K39 có thể hiểu hơn về gia đình nhà Máu. Và hy vọng rằng K39 cũng có được những trải nghiệm khó phai mờ đó cùng với các anh chị K38 và Hội Bô lão. Để rồi sang năm các em chính là người thực hiện và tổ chức chương trình “ Hồng Ân 2” thành công như các anh chị  K38 và hơn thế nữa. Yêu Đội máu Ngoại giao biết mấy!
Chiều ngày 07/10/2012 – một kỉ niệm khó phai!


TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

Đội máu Ngoại giao yêu các bé nhiều!

Đội máu Ngoại giao yêu các bé nhiều!

Hà Nội những ngày cuối thu thật đẹp biết bao! Thời tiết bắt đầu se lạnh với những cơn gió heo may bắt đầu da diết từng cơn. Vào những ngày này, Hà Nội tràn ngập trong cái không khí chuẩn bị đón lễ trăng rằm.  Đâu đâu trên đường phố Hà Nội cũng đỏ chót với những chiếc lồng đèn hay là những gói bánh trung thu nhỏ nhắn, xinh xinh.
Tất cả điều đó thổi vào trong trái tim mỗi người những cảm xúc nhẹ nhàng, da diết mà tưởng chừng như hư vô. Cái cảm giác đó còn đặc biệt hơn nữa đối với các em thiếu nhi tại Viện huyết học – Truyền máu Trung ương. Các em là những người khá thiệt thòi so với những đứa bạn cùng trang lứa. Vì mắc phải những căn bệnh cần máu thường xuyên mà các em không được một phút ngơi nghỉ nào dời khỏi bệnh viện.
Chính vì lí do đó mà chúng tôi – Đội Máu Ngoại giao đã quyết định dành những ngày tổ chức cho các em thiếu nhi tại Viện huyết học và truyền máu trung ương một buổi đón trung thu sớm ngay tại bệnh viện.
Chiều tối ngày 28/9 trước đêm trung thu 2 ngày, chúng tôi có mặt tại bệnh viện với số lượng thành viên lên đến 80 người. Sau một ngày học hành vất vả, mệt mỏi ở trường nhưng được đi làm tình nguyện cho các em nên những nụ cười, ánh mắt hạnh phúc luôn rạng ngời trên khuôn mặt mỗi thành viên. Đúng 6h30’ chúng tôi đã có mặt tại một căn phòng ở bệnh viện với rất nhiều quà tặng, lồng đèn, ông sao, bóng bay... và tất cả mọi thứ đã được bố trí rất đẹp mắt trong căn phòng nhỏ bé xinh xinh.
Buổi tiệc bắt đầu bằng những trò chơi, những ca khúc chào đón trung thu. Khi tham gia các trò chơi, các bé được các anh chị tặng quà, bé nào cũng háo hức được nhận quà trung thu. Buổi liên hoan diễn ra trong không khí vui vẻ, hạnh phúc của tất cả mọi người trong căn phòng ấm cúng. Các bác phụ huynh nói rằng : “ Đã lâu lắm rồi mới thấy các bé vui như vây” và cũng đã lâu lắm rồi, cái cảm giác rạo rực ấy mới ùa về trong trái tim mỗi thành viên của Đội. Cái cảm giác ngày xưa được các anh chị tặng quà thật vui sướng biết bao và giờ đây lại càng vui hơn khi được tặng quà cho các bé.
Buổi tiệc kết thúc bằng những bài hát thiếu nhi rất hay và ý nghĩa. Các anh chị và các bé ai cũng muốn có thêm thật nhiều thời gian để có thể ngồi bên nhau hơn nữa. Thế nhưng thời gian thì chẳng đợi chờ một ai, buổi tiệc nào cũng đến lúc tàn. Các bé dời khỏi căn phòng ấm cúng với những món quà trên tay cùng gương mặt rạng ngời, hạnh phúc. Nhìn nụ cười các bé, các bác phụ huynh, chúng tôi biết rằng chúng tôi đã mang lại được một chút niềm vui cho các bé để lấp đi những thiệt thòi mà các bé đang phải gánh chịu.
Còn chúng tôi – những thành viên trong Đội Máu Ngoại giao sẽ học được nhiều bài học ý nghĩa sau khi được tiếp xúc với các bé. Và cũng sau các hoạt động tình nguyện như thế này, gần 80 thành viên của Đội Máu lại càng thêm thân thiết, gần gũi hơn. Chúng tôi biết rằng cuộc sống này còn rất nhiều số phận, những cảnh đời bất hạnh và con đường đang đi còn rất dài và còn gặp nhiều khó khăn nhưng chỉ cần tinh thần đoàn kết chúng tôi sẽ vượt qua tất cả. Nếu như giọt mồ hôi của chúng tôi có thể mang lại nụ cười cho bạn -  những số phận bất hạnh thì chúng tôi luôn sẵn sàng.

Chúc các bé có một mùa Trung thu vu vẻ và hạnh phúc nhé! Đội Máu Ngoại giao yêu các bé nhiều!

TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

Tác động của chính sách kinh tế mới (NEP) đến đời sống chính trị Liên Xô lúc bấy giờ?

Bài làm

Không bao lâu sau cách mạng tháng mười, việc thực hiện kế hoạch xây dựng CNXH của Lê Nin bị gián đoạn bởi cuộc nội chiến 1918-1920. Vừa phải chống thù trong vừa phải chống giặc ngoài, chính vì vậy trong thời kỳ này, Lê Nin đã áp dụng chính sách cộng sản thời chiến là trưng thu lương thực thừa của nông dân sau khi dành lại cho họ mức ăn tối thiểu. Đồng thời, xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ, xoá bỏ việc mua bán lương thực tự do trên thị trường, thực hiện chế độ cung cấp hiện vật cho quân đội và bộ máy nhà nước.Chính sách cộng sản thời chiến đã đóng vai trò quan trọng trong thắng lợi của nhà nước Xô viết. Nhờ nó mà quân đội đủ sức để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ được nhà nước Xô viết .
Tuy nhiên, khi hoà bình lập lại, chính sách cộng sản thời chiến không còn thích hợp. Nó trở thành nhân tố kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Hậu quả của chiến tranh đối với nền kinh tế rất nặng nề, thêm vào đó chính sách chưng thu lưng thực thừa đã làm mất động lực đối với nông dân. Việc xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm mất tính năng động của nền kinh tế vốn dĩ mới bước vào giai đoạn phát triển. Vì vậy, khủng hoảng kinh tế chính trị diễn ra rất sâu sắc. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách kinh tế thích ứng thay thế. Chính sách kinh tế mới của Lê nin được đề xướng để đáp ứng yêu cầu này nhằm tiếp tục kế hoạch xây dựng CNXH trong giai đoạn mới . Do đó Đại hội X của Đảng Bônsêvíc Nga đã chủ trương thay thế chính sách cộng sản thời chiến bằng chính sách kinh tế mới (NEP) để đáp ứng nhu cầu của thời bình.
Nhờ có chính sách kinh tế mới mà chỉ trong vòng một năm rưỡi nhân dân Liên Xô đã đạt được những kết quả rực rỡ, có ý nghĩa quyết định trong kinh tế, tình cảnh của nông dân và đa số những người tiểu sản xuất đã được cải thiện; trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ đã có sự tiến triển, không còn cảnh công nhân bất bình, trong lĩnh vực công nghiệp nặng đã bắt đầu tích luỹ được vốn cần thiết để vực nền công nghiệp nặng đi lên. Nền kinh tế Liên Xô đã dần đi vào ổn định và đạt được những thành quả nhất định. Tình hình chính trị cũng ổn định hơn, nhân dân Liên Xô đặt niềm tin vào Đảng Bônsêvích nhiều hơn.
NEP đã mang đến cho tình hình chính trị lúc bấy giờ một biện pháp để ổn định và giải quyết các vấn đề bất ổn.
Thứ nhất, NEP đã đặt đúng vị trí của nông dân trong công cuộc khôi phục, xây dựng đất nước, NEP đã xác định đúng đắn vấn đề “bắt đầu từ nông dân”, đưa việc cải thiện đời sống nông dân và phát triển lực lượng sản xuất của họ lên hàng đầu. Thực chất của Chính sách thuế lương thực, là một trong những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao năng lực sản xuất của chính họ.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, NEP đã thực hiện củng cố, xây dựng liên minh công nông - một trong những điều kiện cơ bản để thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa đối với những nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế tiểu nông. Nếu trong giai đoạn giành chính quyền, liên minh công nông, chủ yếu được xây dựng trên cơ sở chính trị, thì trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, NEP đã cho thấy phải củng cố, xây dựng liên minh này cả trên cơ sở kinh tế, nghĩa là phải quan tâm đến lợi ích kinh tế của nông dân, tạo ra các mối quan hệ khăng khít giữa công nghiệp và nông nghiệp.
Thứ hai, việc cho phép tự do sản xuất buôn bán, khuyến khích mở rộng thị trường, đồng thời tổ chức lại phương pháp lãnh đạo kinh tế, đã dẫn đến sự củng cố và khôi phục, các công cụ quản lý của nhà nước được áp dụng một cách hiệu quả. Bên cạnh đó một vấn đề không kém quan trọng là việc củng cố khối liên minh công nông chặt chẽ, bởi Lênin coi đó là nguyên tắc cơ sở của nền chuyên chính vô sản, điều kiện không thể thiếu để cải tạo công nghiệp và nông nghiệp theo con đường chủ nghĩa xã hội. Để khối liên minh công nông được vững chắc cần phải dựa chặt chẽ trên vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, từ đó thấy được sự cần thiết phải củng cố chuyên chính vô sản hay vai trò của Đảng cộng sản. Bởi vậy, cùng với việc thực hiện NEP luôn luôn phải gắn liền với tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và xây dựng bộ máy nhà nước cho phù hợp với điều kiện bấy giờ.
Thứ ba, những thành quả của NEP về kinh tế đã giáng một đòn nặng nề vào phe  cánh hữu. NEP đã chứng mình và cho các bè phái chống đối một thông điệp rằng con đường mà Đảng Bôn sê vích đang đưa nhân dân Xô Viết đi theo là đúng đắn. NEP cũng đã giải quyết được những chỗ chưa thực sự chính sác về mặt chính sách của giai cấp vô sản trước đó. Đồng thời, NEP đã làm tăng lòng tin của nhân dân Xô Viết vào con đường mà Đảng của giai cấp vô sản đang lãnh đạo.
Kinh tế và chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và không thể tách dời nhau. Những thay về mặt kinh tế sẽ tác động đến những đổi thay về mặt chính trị. Đồng thời những đổi thay về mặt chính trị cũng làm cho sự phát triển của nền kinh tế thay đổi. Việc thực hiện NEP cũng không phải là một ngoại lệ, NEP đã làm cho tình hình chính trị trong Liên Xô lúc bấy giờ có những chuyển biến tích cưc. Ngược lại chính trị cũng có những tác động nhất định trong quá trình thực hiện chính sách kinh tế mới NEP
NEP được áp dụng ở Việt Nam chính là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tất cả các thành phần kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Ngoài ra, song song với phát triển kinh tế Đảng ta vận dụng tư tưởng của Lênin về nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, khắc phục triệt để mọi biểu hiện quan liêu trong các tổ chức Đảng và chính quyền. Chỉ có như vậy nước ta mới có thể tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong nước cũng như bối cảnh quốc tế đương thời.



TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
(24/05/2013)

Đặc điểm nền kinh tế Mỹ trong giai đoạn 1861 - 1913


Đặc điểm nền kinh tế Mỹ trong giai đoạn 
1861 - 1913

Bài làm

Nền kinh tế Mỹ từ 1861 – 1913 là sự phát triển vượt bậc, đây là thời điểm đánh một dấu mốc quan trọng trong lịch sự kinh tế của Mỹ và là điểm bắt đầu cho một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới này.
Cuộc cách mạng công nghiệp được bắt đầu ở miền Bắc của nước Mỹ vào những năm cuối thế kỷ XVIII đã thúc đầy nền kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong nông nghiệp của nước Mỹ hình thành hai hệ thống đối lập nhau: ở phía Bắc nông nghiệp phát triển theo hướng trang trại tự do tư bản chủ nghĩa, ở đây các trại chủ chú trọng ứng dụng kỹ thuật và sử dụng phổ biến các loại máy móc nông nghiệp và thuê lao động. Trong khi ấy, ở phía Nam chế độ bóc lột nô lệ ở các đồn điền hết sức man rợ, đồng thời vơ vét kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên ở các đồn điền, bạo lực là yếu tố trực tiếp để quản lý người lao động trong sản xuất. Ở đây ít sử dụng máy móc, kỹ thuật, chủ yếu là khai thác và sử dụng đến kiệt quệ sức lao động của người da đen. Mâu thuẫn giữa hai hệ thông nông nghiệp ngày càng diễn ra gay gắt. Việc thủ tiêu chế độ nô lệ đồn điền đã trở thành vấn đề bức bách  đặt ra với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản nói chung và các chủ đồn điền nói riêng.  Mâu thuẫn gay gắt đã dẫn đến bùng nổ cuộc nội chiến vào tháng 4 năm 1961 và kết thúc vào tháng 4 năm 1965. Cuộc nội chiến đã mang lại thắng lợi cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở phía Bắc, thủ tiêu chế độ nô lệ đồn điền ở phía Nam. Tháng 5 năm 1862, luật cư trú được ban hành, quy định cấp phát đất không mất tiền cho các chủ trại. Đây là giải pháp dân chủ và tiến bộ trong chính sách ruộng đất, tạo điều kiện nông nghiệp phát triển theo hướng trang trại tư bản chủ nghĩa, tạo thị trường rộng lớn cho công nghiệp phát triển. “ Luật giải phóng nô lệ” được ban hành ngày 1 tháng 1 năm 1863, nô lệ da đen được giải phóng, là nguồn nhân lực quan trọng bổ sung cho công nghiệp phát triển. Đồng thời, chính sách bảo hộ mậu dịch đã thực hiện trên toàn lãnh thổ nước Mỹ, tạo cơ sở cho kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng được phát triển nhanh chóng, đưa nước Mỹ vươn lên vị trí hàng đầu về kinh tế vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỉ XX.
Sau giai đoạn nội chiến là thời kỳ bùng nổ của kinh tế Mỹ. Sau cuộc nội chiến ở Mỹ, kinh tế nước Mỹ có điều kiện phát triển nhanh chóng, từ một nước phụ thuộc vào châu Âu, nước Mỹ nhanh chóng trở thành cường quốc công nghiệp đứng đầu thế giới. Sản phẩm công nghiệp của Mỹ tăng rất nhanh, giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng 4,98 lần, từ 1.907 triệu USD năm 1860 lên 9.948 triệu USD năm 1894. Nhiều ngành công nghiệp quan trọng phát triển như ngành luyện kim. Năm 1913 sản lượng thép của Mỹ vượt Đức 2 lần, vượt Anh 4 lần đạt 31,3 triệu tấn. Ngành khai thác than sản lượng gấp 2 lần Anh và Pháp cộng lại. Năm 1882 mới xuất hiện nhà máy điện đầu tiên, đến năm 1913 sản lượng điện đạt 57 triệu Kwh. Năm 1892 sản xuất chiếc ô tô đầu tiên, đến năm 1913 đã sản xuất được 485.000 ô tô các loại. Các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng như: may mặc, giày da, chế biến thực phẩm … cũng phát triển mạnh.
Nông nghiệp nước Mỹ cũng đạt được những thành tựu lớn. Nhà nước có chính sách khuyến khích kinh tế trang trại như không đánh thuế vào hàng nông sản. Từ năm 1870 đến năm 1913 diện tích gieo trồng lúa mỳ tăng lên 4 lần, nông nghiệp phát triển theo hướng chuyên canh, thâm canh, sử dụng máy móc và kỹ thuật, do đó giá trị sản lượng nông nghiệp năm 1913 tăng 4 lần so với năm 1870, từ 2,5 tỷ USD lên 10 tỷ USD. Nước Mỹ cung cấp 9/10 bông; 1/4 lúa mạch trên thị trường thế giới vào cuối thế kỷ XIX, và đầu thế kỷ XX.
Nước Mỹ từ một quốc gia đi vay đã nhanh chóng trở thành nước có ngoại thương phát triển và xuất khẩu tư bản. Nếu năm 1899 xuất khẩu tư bản của Mỹ mới đạt 500 triệu thì năm 1913 đạt 2.625 triệu USD, tăng hơn 5 lần. Năm 1870 kim ngạch ngoại thương đạt 1,5 tỷ USD, năm 1914 đạt 5,5 tỷ USD. Thị trường đầu tư và buôn bán chủ yếu của Mỹ là Canada và các nước vùng biển Caribbean, Trung Mỹ, các nước Châu Á đặc biệt là Nhật Bản và Ấn Độ. Sự phát triển của công nghiệp đã làm thay đổi cơ cấu kinh tế của nước Mỹ. Cuối XIX nông nghiệp chiếm 50% thì đến 1913 chỉ còn 30% trong tổng sản phẩm xã hội.
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là do nhiều nguyên nhân:
Do kết quả của cuộc nội chiến(1861-1865) đã xóa bỏ chế độ đồn điền ở phía Nam, tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển trên toàn lãnh thổ nước Mỹ. Sau nội chiến, chế độ bảo hộ mậu dịch được thực hiện đã giúp công nghiệp Mỹ tránh khỏi sự cạnh tranh của hàng hóa công nghiệp nước ngoài. Sự phát triển nông nghiệp trang trại tư bản với quy mô lớn đã tạo ra hậu thuẫn vững chắc cho sự phát triển công nghiệp.
Thời gian này nước Mỹ tiếp tục thu hút vốn, lao động, kỹ thuật từ các nước châu Âu. Từ năm 1865-1875, riêng ngành đường sắt Mỹ đã thu hút 2 tỷ USD đầu tư của nước ngoài. Đông thời, nguồn di dân từ các nước châu Âu sang mỹ đóng góp phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế Mỹ.
Kinh tế Mỹ phát triển thúc đẩy quá trình tích tụ tập trung tư bản và tập trung sản xuất và hình thành các tổ chức độc quyền. Độc quyền ở Mỹ diễn ra nhanh, quy mô lớn, thâu tóm hầu hết các ngành kinh tế chủ yếu trong công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, ngân hàng, bảo hiểm, …
Các tổ chức độc quyền không chỉ thâu tóm các ngành kinh tế trong nước mà còn vươn ra ngoài thê giới.
Tiếp thu kinh nghiệm và kỹ thuật của các nước khác. Việc hình thành những ngành công nghiệp và hiện đại của Mỹ có những đóng góp to lớn của kỹ thuật châu Âu. Trên cơ sở đó, nước Mỹ đã có nhiều phát minh, sáng chế, tạo điều kiện cho sự phát triển các ngành công nghiệp với kỹ thuật mới vượt lên trên các nước châu Âu.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng, giai đoạn 1861-1913 là giai đoạn phát triển thần kỳ, nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ. Từ một nước phụ thuộc kinh tế vào các nước châu Âu thì Mỹ đã vươn lên trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu trên thế giới. Giai đoạn này đã mở ra một kỷ nguyên phát triển mới cho nền kinh tế nước Mỹ cũng như đánh dấu sự xuất hiện của nước Mỹ hùng mạnh trên thế giới.
Đây cũng là một bài học quý báu cho dân tộc ta, bài học ấy nhấn mạnh đến việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, đẩy mạnh đầu tư vào các ngành công nghiệp nhẹ, thu hút vốn, lao động, khoa học kỹ thuật của nước ngoài, sự kết hợp khéo léo giữa chế độ bảo hộ mậu dịch và mở cửa nền kinh tế…



TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
(24/05/2013)

Đặc điểm kinh tế Nhật Bản giai đoạn 1945 -1973

 Bài làm
Chiến tranh thế giới thứ hai đã mang lại cho Nhật Bản những thiệt hại to lớn về người và của. Nếu như Nhật Bản trước chiến tranh là một nước công nghiệp phát triển, một trong các cường quốc hàng đầu thế giới thì sau chiến tranh, cường quốc ấy bị tàn phá nặng nề, gần 3 triệu người chết và bị thương, tổng giá trị thiệt hại lên tới 61,3 tỷ yên. Sau khi chiến tranh kết thúc, nền kinh tế bị lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng: năng lượng thiếu, lạm phát tăng, 13,1 triệu người không có việc làm.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 1945 – 1973 là giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản khôi phục và phát triển một cách “ thần kỳ”.
Ngay trong những năm đầu sau chiến tranh, dưới sự kiểm soát của quân đội Mỹ, một số cải cách lớn về kinh tế - xã hội ở Nhật Bản đã được thực hiện.
Việc đầu tiên đó là giải thể các Zaibatsu, nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự của Nhật Bản, xóa bỏ quyền kiểm soát của một số công ty lớn đối với nền kinh tế Nhật Bản. Cải tổ các công ty theo hướng phi tập trung hóa. Biện pháp này tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong tất cả các ngành công nghiệp và thúc đẩy cơ chế thị trường hoạt động mạnh mẽ, tự do hóa nền kinh tế.
Cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được giữ lại một phần ruộng đất nhất định, tối đa là 5 ha, sau giảm xuống còn 1 ha. Số còn lại nhà nước sẽ mua lại và chuyển nhượng cho những nông dân không có ruộng đất.
Giải quyết vấn đề việc làm, cải thiện điều kiện làm việc, tăng lương cho công nhân. Để thực hiện dân chủ hóa lao động, trong khoảng thời gian từ 1945 – 1947 có ba đạo luật được ban hành: Luật công đoàn(1945), Luật tiêu chuẩn lao động(1947) và Luật điều chỉnh các quan hệ lao động.
Những cải cách trên đây tạo điều kiện cho Nhật Bản khôi phục kinh tế và chuyển hướng từ nhà nước quân sự sang nhà nước hướng phát triển kinh tế.
Tuy nhiên trước năm 1948, việc khôi phục kinh tế diễn ra chậm chạp và khó khăn. Một mặt vì kinh tế bị tàn phá nặng nề, thiếu vốn, nguyên liệu,… mặt khác, người Mỹ đã thực thi một chính sách cứng rắn với Nhật Bản. Song từ tháng 10/1948, lập trường của Mỹ đối với Nhật Bản đã có sự thay đổi căn bản. Nhật Bản đã được Mỹ nâng đỡ trở thành đồng minh đắc lực trong chính sách xâm lược của Mỹ ở Châu Ấ - Thái Bình Dương. Kể từ tháng 4/1948, công cuộc khôi phục kinh tế của Nhật Bản diễn ra ngày càng thuận lợi. Đến năm 1951, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Nhật Bản như tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu thực tế đã bằng và vượt mức trước chiến tranh.
Trong khoảng 20 năm sau chiến tranh (1952-1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với nhịp độ rất nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản. Từ một nước đứng dậy từ trong đống tro tàn của chiến tranh, Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế thứ hai trong thế giới tư bản sau Mỹ. Từ 1953 -1973, tốc độ tổng sản phẩm quốc dân thực tế của Nhật Bản thường ở mức cao nhất trong các nước tư bản. Đến năm 1968, tổng sản phẩm trong nước của Nhật Bản đã vượt các nước Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Canada,...
Tốc độ phát triển công nghiệp hằng năm thời kỳ 1950 – 1960 là 15,9%, từ 1960 -1969 là 13,5%. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỷ USD năm 1950 lên 56,4 tỷ USD năm 1969. Đúng một trăm năm sau cải cách Minh Trị, Nhật Bản đã dẫn đầu các nước tư bản về tàu biển, xe máy, máy khâu, máy ảnh, ti vi; đứng thứ hai về sản lượng thép, ô tô, xi măng, sản phẩm hóa chất, hàng dệt, …
Một số ngành công nghiệp then chốt đã tăng lên với nhịp độ rất nhanh. Mặc dù Nhật Bản hầu như không có mỏ dầu nhưng đã đứng đầu các nước tư bản về nhập và chế biến dầu thô, riêng năm 1971 đã nhập tới 186 triệu tấn dầu thô, công nghiệp sản xuất sắt thép năm 1950 là 4,8 triệu tấn, năm 1973 là 117 triệu tấn. Năm 1960, công nghiệp ô tô Nhật Bản còn đứng thứ 6 trong thế giới tư bản, đến năm 1967 vươn lên hàng thứ hai sau Mỹ. Năm 1968 Nhật Bản sản xuất được 2 triệu ô tô. Công nghiệp đóng tàu đến những năm 70 chiếm trên 50% tổng số tàu biển lớn và có 6 trong 10 nhà máy đóng tàu lớn nhất thế giới tư bản. Sự phát triển nhanh của một số ngành kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu ngành sản xuất của Nhật Bản. Tỷ trọng các ngành nông, lâm, ngư nghiệp giảm đi đáng kể, các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng nhanh.
Giao thông vận tải, nhất là phương tiện vận chuyển tăng nhanh. Đến đầu thập kỷ 70, Nhật Bản đứng đầu các nước tư bản về vận tải đường biển.
Ngoại thương được coi là nhịp thở của nền kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950 đến năm 1971 kim ngạch ngoại thương tăng 25 lần từ 1,7 USD đến 43,6 tỷ USD. Trong đó xuất khẩu tăng 30 lần, xuất khẩu tăng 21 lần.
Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản trong giai đoạn 1952 – 1973 bắt nguồn từ một số nguyên nhân cơ bản như:
Thứ nhất là nhân tố con người, phải nói rằng chế độ giáo dục của Nhật Bản khá phát triển và hoàn thiện. Người Nhật Bản rất chú trọng đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, có đủ khả năng nắm bắt và sử dụng những kỹ thuật, công nghệ mới. Đội ngũ cán bộ, khoa học kỹ thuật của Nhật Bản khá đông đảo, có chất lượng cao đã góp phần đắc lực vào bước phát triển nhảy vọt về kỹ thuật và công nghệ của đất nước. Giới quản lý và kinh doanh của Nhật Bản được đánh giá là những người sắc xảo, nhạy bén trong việc nắm bắt thị trường, đổi mới phương pháp kinh doanh, đem lại thắng lợi cho các công ty Nhật Bản trên trường quốc tế.
Thứ hai, Nhật Bản tiếp cận và ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Nhật Bản đã chú trọng ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới nhất của Âu – Mỹ bằng cách nhập khẩu công nghệ, kỹ thuật, mua các phát minh, sáng chế. Bằng cách đi khôn ngoan, chỉ hơn 20 năm sau chiến tranh, nền khoa học – kỹ thuật của Nhật Bản đã có bước phát triển nhảy vọt. Đến đầu những năm 1970, Nhật Bản đã đạt trình độ cao về tự động hóa, trình độ sử dụng máy vi tính trong các ngành sản xuất… Đó là những nhân tố tác động rất mạnh đến tốc độ phát triển kinh tế của Nhật Bản sau chiến tranh.
Thứ ba, Nhật Bản chú trọng điều tiết kinh tế của Nhà nước. Ngay sau chiến tranh, Chính phủ Nhật Bản đã thực hiện một loạt biện pháp để đẩy mạnh tự do hóa nền kinh tế, kích thích kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường kết hợp với sự điều tiết của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Nhà nước đã tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho tăng trưởng bằng hệ thống pháp luật và khả năng duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật và sự đầu tư trực tiếp vào kinh tế. Sự can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế có tác dụng chống đỡ khủng hoảng, tạo ra những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế tăng trưởng cao.
Thứ tư, Nhật Bản đã mở rộng thị trường trong nước và nước ngoài. Nhờ cải cách ruộng đất, hình ảnh chủ trang trại kinh doanh nhỏ đã mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, sử dụng máy móc công nghệ tiên tiến. Do đó, nông nghiệp nông thôn tạo ra thị trường rộng lớn cho sản xuất phát triển. Đồng thời Nhật Bản tìm cách xâm nhập vào thị trường thế giới như tăng khả năng cạnh tranh hàng hóa nhờ giảm chi phí sản xuất và chú trọng chất lượng sản phẩm, xây dựng đội ngũ thương nhân có năng lực, nhiều kinh nghiệm, thực hiện chính sách đối ngoại linh hoạt…
Thứ năm, Nhật Bản đã kết hợp khéo léo cấu trúc kinh tế hai tầng. Đó là sự liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa khu vực kinh tế hiện đại và khu vực truyền thống. Khu vực kinh tế hiện đại bao gồm các công ty lớn với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, lượng vốn đầu tư lớn, sử dụng lao động suốt đời, tiền lương cao theo thâm niên, điều kiện làm việc tốt. Khu vực truyền thống chủ yếu là các doanh nghiệp nhỏ, sử dụng kỹ thuật công nghệ lạc hậu, lao động hợp đồng hoặc theo thời vụ, tiền lương và điều kiện làm việc thấp kém. Khi nền kinh tế lâm vào khó khăn, khu vực truyền thống sẽ trở thành “ đệm giảm xóc “ cho các khu vực hiện đại. Với cấu trúc kinh tế hai tầng, nguồn lao động dư thừa và công nghệ lạc hậu sau chiến tranh được sử dụng hợp lý và có hiệu quả.
Thứ sáu, Nhật Bản duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cao. Nhật Bản thời kỳ này được coi là một nước có tỉ lệ tích lũy vốn cao nhất trong các nước tư bản phát triển. Đây là một trong những nhân tố quyết định nhất, bảo đảm cho nền kinh tế Nhật Bản phát triển với tốc độ cao. Nhật Bản không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn bên ngoài. Chín phủ giao cho Bộ Tài chính quản lý và kiểm soát rất chặt chẽ việc sử dụng các nguồn vốn đó. Nhật Bản sử dụng vốn một cách rất táo bạo và có hiệu quả. Trong sử dụng vốn, Nhật Bản đầu tư vào những ngành sản xuất lớn, hiện đại và có hiệu quả cao. Qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất diễn ra rất nhanh chóng, đạt trình độ và quy mô quốc tế. Nhật Bản đã nhanh chóng xây dựng nên các ngành kinh tế mũi nhọn dựa trên kỹ thuật công nghệ hiện đại.
Thứ bảy, Nhật Bản đẩy mạnh hợp tác với Mỹ và các nước khác. Sau 3 năm chiếm đóng và kiểm soát Nhật Bản, năm 1948 Mỹ đã chuyển giao quyên quản lý kinh tế và xã hội cho Chính phủ Nhật Bản. Bắt đầu từ đây, mối quan hệ Mỹ- Nhật được phục hồi và phát triển nhanh chóng. Đồng thời Nhật Bản có xu thế hội nhập quốc tế, hợp tác và nhất thể hóa kinh tế tư bản chủ nghĩa, xu thế hoàn hoãn và hợp tác của các công ty độc quyền quốc tế…
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, trong giai đoạn 1945 – 1973, nền kinh tế Nhật Bản đã phục hồi và phát triển nhanh chóng, vươn lên trở thành một trong các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Sự phát triển kinh tế thần kỳ đó là sự kết hợp khéo léo giữa “công nghệ phương Tây” và “tính cách Nhật Bản”.
Nhật Bản luôn là quốc gia đi đầu ở Châu Á, nhưng câu chuyện về Nhật Bản luôn là những bài học quý báu cho dân tộc ta. Sự phát triển thần kỳ của Nhật Bản đã giúp chúng ta rút ra được nhiều bài học quý báu. Đó là bài học về nhân tố con người, con người luôn là một nhân tố quan trọng, có thể vượt lên trên tất cả. Đồng thời, để có một nền kinh tế phát triển, chúng ta cần duy trì mức tích lũy cao thường xuyên, sử dựng vốn đầu tư hiệu quả; tiếp cận, ứng dụng nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật; chú trọng đến vai trò điều tiết của Nhà nước;  mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế…


TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
ĐỀ CƯƠNG LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ I


Câu 1:  Tác động của Cách mạng công nghiệp (CMCN) tới đời sống quốc tế thời cận đại
-        Tiền đề để CMCN ra đời:
•        Kinh tế hàng hóa phát triển ở Tây Âu  đòi hỏi về năng suất lao động và nhu cầu về thị trường tăng cao (các cuộc phát kiến địa lý).
•        CNTB đang phát triển mạnh mẽ (các cuộc CMTS nổ ra).
•        Sức lao động dồi dào (nông dân bị tước đoạt ruộng đất, làn sóng di cư, nô lệ da đen)
•        Nước Anh có những điều kiện thuận lợi cho CMCN xảy ra: nguồn nguyên vật liệu dồi dào (khoáng sản, lông cừu, bông), các con sông có sức chảy mạnh, hàng hải phát triển nhờ vị trí địa lý, CMTS nổ ra khá sớm (1640)
-        Tác động của CMCN tới đời sống quốc tế thời cận đại: SMQG, tham vọng, CSĐN
•        Làm thay đổi tương quan lực lượng trong QHQT: Anh vươn lên vị trí bá quyền thế giới, các quốc gia tư sản mới như Mỹ, Đức, Nhật tiến bộ nhanh chóng
•        Làm QHKTQT phát triển hơn: vấn đề thuộc địa thúc đẩy chính sách dối ngoại thực dân, các tổ chức độc quyền ra đời.
“Mặt trời ko bao giờ lặn trên đất nước Anh”, sự xâm lược Trung Quốc.
•        Vấn đề chiến tranh và hòa bình giải quyết theo phương châm “chân lý thuộc về kẻ mạnh” và “chiến tranh là phương tiện tốt nhất để phát triển bên trong”: mâu thuẫn giữa các nước tư bản và mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản.
Chiến tranh kế thừa TBN (1701-1714), chiến tranh Bảy năm (1756-1763) giữa 2 tập đoàn Anh-Phổ và Pháp-Áo-Nga.

Câu 2: So sánh chính sách đối ngoại của nhà nước tư sản và phong kiến
* Tư sản:
- Chủ trương:        
Quan hệ với cả các nước trong và ngoài khu vực .
- Biện pháp:
Đối với các nước trong khu vực giữ quan hệ đối tác trên lĩnh vực thông thương là chính . Đối với các nước ngoài khu vực tìm cách xâm nhược bằng cách truyền bá văn hoá ( đạo thiên chúa , chữ viết ) hoặc đem quân xâm lược phục vụ mục đích tìm thị trường ,  xuất khẩu tư bản , , tìm kiếm nguồn nhân công rẻ mạt cũng như tài nguyên nhằm chuẩn bị cho chiến tranh đế quốc.
- Kết quả:
Tư sản củng cố và nâng cao được sức mạnh ảnh hưởng của mình trên phạm vi toàn cầu . Đây chính là hồi chuông cáo chung cho sự lụi tàn của chế độ phong kiến
* Phong kiến:
- Chủ trương:
Hạn chế quan hệ với các quốc gia bên ngoài . Chú trọng vào quan hệ đối ngoại với các quốc gia trong khu vực
- Biện pháp:
Hạn chế tiếp xúc với các đoàn ngoại giao ở ngoài khu vực mình định gây ảnh hưởng . Đối với một số quốc gia trong khu vực tiến hành gây xung đột , xâm lược nhằm bành trướng lãnh thổ , tìm kiếm và buôn bán nô lệ
- Kết quả:
Do đường lối ngoại giao thiếu sáng suốt và đi ngược lại quyền lợi nhân dân , giai cấp phong kiến đã từng bước tự cô lập mình . Sự suy tàn của chế độ phong kiến là kết quả tất yếu xuất phát từ sự kém nhạy bén trong cả chính sách đối nội và đối ngoại

Câu 3: Tác động của các cuộc cách mạng tư sản thời cận đại tới QHQT
Hà Lan (1566-1684), Anh (1642-1688), Pháp (1789-1799), Bắc Mỹ (1776-1783)
-        Lật đổ chế độ phong kiến và thiết lập hệ thống các nước TBCN trên phạm vi toàn thế giới
-        Là tiền đề quan trọng để tiến hành CMCN
-        Mở rộng quy mô và thay đổi tính chất của QHQT
-        Các quốc gia tiến hành CMTS dần dà đã giành được ưu thế trong QHQT, trở thành trung tâm quyền lực chi phối các hoạt động chính trị quốc tế

Câu 4: Nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống phong kiến ở Châu Âu
Nguyên nhân tổng quát chính là những sai lầm, trì trệ cả trong chính sách đối nội và đối ngoại của các nhà nước phong kiến.
-        Ra sức bóc lột nông dân, kìm hãm giai cấp tư sản: ruộng cày, địa tô, thuế khóa, trao đổi thương mại, kiểm soát sản xuất… Giai cấp phong kiến ko còn khả năng điều hành, quản lý đất nước hiệu quả nữa mà ali5 ăn chơi hưởng thụ, tiêu xài hoang phí  gây bất bình trong xã hội.
-        Thường xuyên tiến hành chiến tranh, đẩy nhân dân vào tình thế nguy khốn: 3 cuộc chiến tranh giữa Pháp và Hà Lan, chiến tranh thừa kế TBN, chiến tranh Crưm, chiến tranh Nga – Nhật
-        Bởi chính sách ngoại giao có phần khép kín nên các quốc gia phong kiến khó thiết lập được liên minh vững chắc chống lại sức mạnh đang trỗi dậy của giai cấp tư sản trên toàn châu Âu.
-        Giai cấp tư sản Châu Âu đã huy động được đại bộ phận nhân dân đứng về phía mình bằng 1 loạt biện pháp bảo đảm quyên lợi cho nhân dân sau khi cướp được chính quyền từ tay phong kiến: chia lại ruộng đất cho dân cày hay núp dưới chiêu bài dân chủ “tự do – bình đẳng – bác ái “ (tuy nhiên thực tế sau khi giành được chính quyền các chính sách ko hề được thực thi như những gì giai cấp tư sản đã hứa trước khi lật đổ chính quyền phong kiến)

Câu 5: Sự thay đổi trong so sánh lực lượng và tập hợp lực lượng trong những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.
-        Sự thay đổi trong tương quan lực lượng:
•        Do quá trình phát triển ko đồng đều trong giai đoạn chủ nghĩa đế quốc nên các nước phân ra làm 2 nhóm: đế quốc “già” và “trẻ”, trong đó tiềm lực kinh tế nghiêng hẳn về các nước đế quốc ‘trẻ”
o        Mỹ, Đức, Nhật có tốc độ phát triển nhanh chóng nhưng sức mạnh kinh tế lại ko tương xứng với lợi ích chính trị khi mà các thuộc địa trên thế giới vẫn thuộc về các nước đế quốc “già”
o        Anh là nước vẫn giữ được tương đối vị thế của mình, trong khi Pháp đã suy yếu nhiều còn Nga, Áo – Hung lại là những nước phong kiến lạc hậu.
•        QHQT vẫn bị chi phối chủ yếu bởi châu Âu, mặc dù Mỹ đã vượt lên hàng đầu về kinh tế.
       Nguyên nhân: sư suy yếu của các nước đế quốc “già” do xuất khẩu tư bản, các vấn đề trong nước và ở các thuộc địa, sự phát triển của các nước đế quốc ‘trẻ” nhờ thành tựu của CMCN.
       Kết quả: Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc “trẻ’ và các nước đế quốc “già” trở nên gay gắt
-        Sự thay đổi trong tập hợp lực lượng giai đoạn trước chiến tranh thế giới I:
•        1 số thay đổi trong chính sách đối ngoại các nước: Mỹ bắt đầu muốn tạo ảnh hưởng ở khu vực châu Á – TBD; Anh xem xét lại chính sách “Trung lập vinh quang” nhằm bảo vệ thuộc địa của mình; Đức có chính sách đối ngoại cực kì phản động và hiếu chiến.
•        Chính sách ngoại giao “tìm đồng minh” của nước Đức (Bismarch): liên minh ba Hoàng đế Đức – Nga – Áo-Hung, liên minh tay ba Đức – Áo-Hung – Ý.
•        Hình thành phe Hiệp ước: Anh trở thành địch thủ chính của Đức  đối đầu ngày càng lộ rõ; các hiệp ước tay đôi Anh – Pháp (1904), Pháp – Nga (1893), Anh – Nga (1907).
•        Mỹ đứng giữa 2 khối.

Câu 6: Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới I và tính chất của nó
-        Nguyên nhân:
•        Nguyên nhân cốt lõi, cơ bản nhất của cuộc chiến là sự phát triển của chủ nghĩa đế quốc hay chính là mâu thuẫn gay gắt của các nước đế quốc. Trong đó vai trò chủ yếu thuộc về Anh và Đức.
•        Các thành tựu của CMCN trong quá trình phát triển đã gây nên nhiều vấn đề cần giải quyết đối với các nước đế quốc mà chiến tranh dc xem là giải pháp hiệu quả nhất.
•        Những hạn chế của hệ thống Frankfurt thúc đẩy các nước tích cực chuẩn bị đi đến chiến tranh.
•        Nguyên nhân trực tiếp: mâu thuẫn giữa 2 phe mà cụ thể là Áo-Hung và Nga tại khu vực Ban-căng đã đưa đến những cuộc khủng hoảng mà đỉnh điểm là việc thái tử Áo và vợ bị 1 tổ chức người Séc-bi ám sát.
-        Tính chất: CTTG 1 là cuộc chuến mang tính phi nghĩa. Chỉ riêng đối với Serbia, cuộc chiến tranh chống Áo – Hung là cuộc chiến tranh chống xâm lược do đó mang tính chính nghĩa giải phóng

Câu 7: Tác động quốc tế của cách mạng tháng 10 Nga (hình thành nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới)
-        Đối với CTTG1:
•        Thúc đẩy phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đòi chính phủ rút khỏi chiến tranh lan rộng ra hầu hết các nước đế quốc, tiêu biểu ở Đức.
•        Các nước đế quốc buộc phải nhanh chóng chấm dứt chiến tranh để rảnh tay đàn áp chính quyền Xô Viết non trẻ
-        Đối với QHQT:
•        Mở ra 1 thời kì mới trong QHQT: tồn tại song song 2 hình thái kinh tế - xã hội đối lập nhau, chấm dứt thế độc tôn của các nước đế quốc trong QHQT;
•        Mở ra 1 thời kì mới cho phong trào công nhân và cộng sản quốc tế: chấm dứt khủng hoảng về đường lối đấu tranh, đặt nền móng cho quá trình hình thành 1 tập hợp lực lượng mới trong QHQT – hệ thống XHCN.
          Ngay sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, 1 cao trào cách mạng vô sản đã dấy lên sôi nổi ở Châu Âu trong những năm 1918-1923, làm chấn động dữ dội nền thống trị của giai cấp tư sản độc quyền ở nhiều nước.
•        Mở ra 1 thời kì mới cho phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc của các nước thuộc địa, đặt cơ sở cho quá trình sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc – thực dân.
          Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”
•        Mở ra 1 thời kì mới trong quá trình phát triển của CNTB hiện đại – thời kì khủng hoảng toàn diện trong hệ thống TBCN.

Câu 8: Đánh giá kết quả hội nghị hoà bình Paris (1919 -1921)
-        Khái quát về hội nghị:
•        Thời gian: 12/01/1919 – 11/08/1920
•        Thành phần tham dự: 27 nước trong phe Hiệp ước, ko có Nga Xô viết và các nước bại trận.
•        Nội dung: giải quyết các vấn đề hậu chiến (hòa bình, an ninh, chiến lợi phẩm), giành lấy lợi ích dựa trên tương quan lực lượng, vấn đề nước Nga Xô viết.
•        Kết quả: Công ước thành lập Hội Quốc liên, Hòa ước Versaille kí với Đức, Hòa ước Saint Germain kí với Áo, Hòa ước Neuilly kí với Bulgaria, Hòa ước Trianon kí với Hungary, Hòa ước Sevres kí với Thổ Nhĩ Kì.
-        Đánh giá kết quả hội nghị:
•        Những hoà ước mà các nước thắng trận buộc các nước bại trận kí kết tại hội nghị đều mang tính nô dịch. Lênin bình luận:” Đấy là 1 thứ hoà ước kì quái, 1 thứ hoà ước ăn cướp, nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có cả những con người văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy ko phải là 1 bản hoà ước, đó là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc nạn nhân ko có gì tự vệ phải chấp nhận”
•        Hội nghị đã ko thể đảm bào hòa bình và an ninh cho thế giới, ko thể giúp nhân loại tránh khỏi nguy cơ 1 cuộc chiến tranh mới. Bởi lẽ, mặc dù làm Đức suy yếu đi rất nhiều nhưng các nước thắng trận đã ko xóa bỏ tất cả những điều kiện có thể giúp bọn quân phiệt phục hồi vì mưu đồ chống Nga Xô viết (LX sau này). Chủ nghĩa phục thù ko những ko dc triệt tiêu mà còn mạnh mẽ hơn  vì các điều khoản bất công mà Đức phải kí với phe Hiệp ước.
•        Hệ thống hòa ước Versaille chứa đựng những mâu thuẫn gay gắt giữa các nước thắng trận, khi mà Mỹ với ưu thế của mình đã ko giành đc nhiều quyền lợi đáng kể, còn Anh, Pháp, Nhật lại cướp dc những thuộc địa của Đức, khi mà Anh lo ngại sự phục hồi của Pháp ở châu Âu.
•        Kết quả hội nghị chỉ càng làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhân dân các thuộc địa thêm sâu sắc, quyết liệt.

Câu 9: Đánh giá kết quả hội nghị hoà bình Washington (1921-1922)
-        Khái quát về hội nghị:
•        Mỹ là 1 nước thắng trận nhưng ko hài lòng với kết quả của hội nghị hòa bình Pari trong khi Mỹ đã vươn lên nhnah chóng sau chiến tranh.
•        Thời gian: tháng 11/1921 đến tháng 2/1922
•        Thành phần: 9 nước (Mỹ, Anh, Pháp, Ý, Bỉ, Hà Lan, BĐN, Nhật, Trung Quốc)
•        Kết quả: Công ước 4 nước (M, A, P, N) về công nhận nguyên trạng ở TBD, Công ước 5 nước về tỉ lệ trọng tải tàu chiến (M 5, A 5, N 3, P 1,75, Y 1,75), Công ước 9 nước công nhận độc lập của Trung Quốc.
-        Đánh giá kết quả hội nghị: Hội nghị Washington hoàn toàn có lợi cho Mĩ.
•        Trước áp lực của Mĩ, Nhật phải từ bỏ 1 phần khá lớn ưu thế đã giành được trong chiến tranh thế giới thứ nhất ở Trung Quốc. Anh phải nhượng bộ Mĩ, nhận quyền bình đẳng về hải quân và huỷ bỏ liên minh Anh – Nhật (nhằm chống lại Mĩ). Như thế là Mĩ nắm được thị trường Viễn Đông và Trung Quốc, nâng cao địa vị Hải quân của mình lên hàng đầu thế giới trước sự lùi bước tạm thời của các đế quốc khác, nhất là Nhật.
•        Với hệ thống hiệp ước Washington, Mĩ giải quyết quyền lợi của mình ko phải trong khuôn khổ của hệ thống hoà ước Vecxai mà bằng cách lập thêm 1 “khuôn khổ” mới do Mĩ chi phối. Khuôn khổ mới này, 1 mặt chống lại khuôn khổ cũ của hệ thống hoà ước Vecxai (mà quốc hội Mĩ ko thừa nhận), làm cho tác dụng thực tiễn của nó bị suy yếu đi, nhưng mặt khác lại bổ sung vào hkuôn khổ cũ để hình thành nên 1 hkuôn khổ mới về tổ chức lại thế giới 1 cách hoàn chỉnh hơn sau chiến tranh. Đó là hệ thống Vecxai- Washington
Câu 10: Nguyên nhân giúp nước Nga Xô Viết tồn tại trong vòng vây của các nước đế quốc
-        Rút khỏi chiến tranh: Nước Nga Xô viết đã chấp nhận kí kết Hiệp ước Brest – Litovsk với những thiệt hại nặng nề nhưng cần thiết cho sự tồn tại của nhà nước non trẻ.
-        Chính sách đối nội: hợp lí, đúng đắn
•        Quân đội Hồng quân được xây dựng củng cố khẩn trương kịp thời với quân số 3 triệu người nhờ đó, từ 1 đội quân chỉ gần nửa triệu người vào trước mùa hè 1918 đến tháng 9-1919 Hồng quân đã có 3 triệu rưỡi chiến sĩ và cuối năm 1920 đã lên tới 5 triệu 300 nghìn người. Trong việc xây dựng lực lượng, Hồng quân đặc biệt coi trọng chất lượng chính trị, nguyên tắc giai cấp và kỉ luật nghiêm minh.
•        Trong hoàn cảnh đất nước bị bao vây, từ mùa hè 1919, nước Nga Xô Viết quyết định chuyển sang thực hiện Chính sách cộng sản thời chiến. Nội dung chủ yếu của Chính sách cộng sản thời chiến là:
       Nhà nước độc quyền lúa mì, cấm tư nhân buôn bán lúa mì. Từ tháng 1-1919, ban hành chế độ trưng thu lương thực thừa đối với nông dân theo nguyên tắc: “Ko thu 1 chút gì của nông dân nghèo, thu của trung nông với mức độ vừa phải và thu nhiều của phú nông”. Năm 1920, chế độ này đã được áp dụng với cả việc trưng thu khoai tây, rau đậu và nhiều nông phẩm khác.
       Nhà nước kiểm soát toàn bộ nền công nghiệp. Tháng 11-1920, tiến hành quốc hữu hoá ko những đối với đại công nghiệpmmà cả công nghiệp hạng vừa và nhỏ. Hội đồng kinh tế quốc dân tối cao (thành lập đầu tháng 12-1917) là cơ quan tập trung việc quản lí, điều hành sản xuất công nghiệp cũng như nền kinh tế quốc dân.
       Thi hành chế độ lao động cưỡng bức đối với toàn dân. Mọi công dân từ 16 đến 50 tuổi đều có nghĩa vụ phải tham gia lao động công ích cho xã hội. Năm 1918, chế độ này được áp dụng đối với các giai cấp bóc lột, năm 1920 – đối với toàn dân và dựa trên nguyên tắc: “Ai ko làm thì ko hưởng”
       Trong hoàn cảnh chiến tranh, đồng tiền bị mất giá nhanh chóng, khắp nơi trên đất nước đã tiến hành việc trả lương bằng hiện vật và phổ biến là dựa theo nguyên tắc bình quân. Chế độ ăn uống ko mất tiền được áp dụng đối với trẻ em, công nhân công nghiệp, đường sắt và giao thông. Chính sách cộng sản thời chiến nhằm huy động tối đa và sử dụng hợp lí mọi nguồn của cải của đất nước, cung cấp những nhu cầu thiết yếu cho quân đội, nhân dân thành thị và nông thôn, phục vụ cho cuộc chiến đấu chống thù trong giặc ngoài
-        Chính sách đối ngoại: khéo léo, linh hoạt, mềm dẻo nhưng cương quyết
•        Lợi dụng, khoét sâu mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù để làm suy yếu chúng
       Trung lập hóa các nước tư sản vùng Ban-tích kề bên (các hòa ước với Estonia, Latvia, Litva, Phẩn Lan 1919-1920, Hiệp nghị hợp tác kinh tế và an ninh chung với Ba Lan, Litva, Estonia 1922)
       Tranh thủ khai thác vào lợi ích kinh tế của các nước đế quốc tại Nga (Mỹ, Anh)
       Chủ động tham dự hội nghị Genova
       Hiệp ước Rapallo giữa Xô – Đức đã phá tan âm mưu của các nước đế quốc nhằm cô lập, bóp nghẹt kinh tế của nhà nước Xô viết.
•        Tạo dựng dc tình đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế và các dân tộc bị áp bức, tạo thành nguồn sức mạnh hỗ trợ to lớn.
       Phong trào phản đối chiến tranh can thiệp ngay trong lòng các nước tư bản và trong hàng ngũ đội quân can thiệp (thủy thủ hạm đội Pháp ở Hắc Hải)
       Sức ép của quần chúng lao động Đức đòi lập quan hệ hữu nghị với Nga Xô viết.
-        Nguyên nhân có tính chất quyết định làm cho nước Nga Xô Viết đánh bại thù trong giặc ngoài là sự lãnh đạo của Đảng Bônsêvich, do Lênin vĩ đại đứng đầu. Là người tổ chức và lãnh đạo cuộc chiến đấu, Đảng Cộng sản đã động viên, lôi cuốn và tổ chức giai cấp công nhân, nông dân lao động và nhân dân các dân tộc thiểu số đứng lên đấu tranh với kẻ thù, tập hợp dc những cá nhân xuất sắc trong bộ máy lãnh đạo của mình. Đảng có đường lối lãnh đạo đúng đắn, khai thác và phát huy cao nhất mọi sức mạnh, mọi nguồn của cải của nhân dân và đất nước để giành chiến thắng.

Câu 11: Những thay đổi trong so sánh lực lượng và tập hợp lực lượng trong giai đoạn 1933-1936
-        Thay đổi trong so sánh lực lượng:
•        Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 là kết quả tất yếu của quá trình phát triển tự do của CNTB và nó đã có tác động vô cùng mạnh mẽ đến tương quan lực lượng giữa các nước đế quốc.
       Mỹ, Anh, Pháp có điều kiện thuận lợi nên tiến hành cải cách
       Đức, Nhật, Ý chọn con đường quân phiệt hóa đất nước
 Mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về thị trường, nguồn nguyên liệu và nơi đầu tư trở nên gay gắt
•        Cuộc khủng hoảng kinh tế mới tiếp ngay sau ở các nước tư bản càng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các nước đế quốc.
       Các nước có phục hồi nhưng ko còn phồn thịnh như trước.
       Khủng hoảng mới làm sản lượng công nghiệp của Anh, Mỹ, Pháp giảm xuống trong khi chưa kịp hàn gắn những vết thương do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới gây ra.
       Trong khi đó nền công nghiệp của Đức và Nhật vẫn phát triển mạnh. Năm 1936 Đức chiếm hàng thứ hai trong sản xuất công nghiệp của thế giới sau Mỹ, và đứng hàng đầu ở Châu Âu. Ngoài Đức và Nhật ra, Ý cũng đã phục hồi mạnh mẽ.
•        Các nước XHCN vẫn phát triển ko ngừng và vững mạnh về mọi mặt.
       Anh, Mỹ, Pháp tuy bị suy yếu rất nhiều nhưng vẫn nắm giữ nhiều thuộc địa; còn Đức, Ý, Nhật đang vươn lên mạnh mẽ và muốn giành thêm nhiều quyền lợi cho mình; LX thực sự là 1 thế lực trong QHQT và là chỗ dựa cho CM thế giới.
-        Thay đổi trong tập hợp lực lượng:
•        Các nước phát xít Đức, Ý, Nhật lần lượt rút khỏi Hội Quốc liên và trắng trợn vi phạm các điều khoản được kí kết trong hệ thống hòa ước Vecxai bằng việc tái vũ trang quân đội vượt mức cho phép và đưa quân xâm lược các quốc gia láng giềng trong khu vực (Nhật chiếm Mãn Châu, Trung Quốc năm 1931, Italia xâm lược Êtiôpi năm 1935, Đức và Italia cùng đưa quân can thiệp vào cuộc nội chiến Tây Ban Nha  năm 1936). Ngày 25/10/1936 Đức, Ý, Nhật kí hiệp định thành lập trục ‘Béclin- Rôma- Tôkyô”. Phe trục chính thức hình thành.
•        Giai đoạn này Pháp, Anh và Mĩ vẫn đứng ngoài cuộc. Mặc dù khối đế quốc này cũng mâu thuẫn rất gay gắt với phe trục tuy nhiên cả hai đều có kẻ thù chung là LX nên Anh, Pháp, Mĩ đều muốn đẩy phe trục chĩa mũi dùi tấn công về phía LX.
•        LX và các nước XHCN phải đương đầu với nguy cơ chiến tranh từ CNPX và những âm mưu của CNĐQ. LX đã khéo léo tạo dựng 1 khu vực hòa bình với các nước láng giềng.
       Giai đoạn 1933-1936 đánh dấu sự thiết lập của phe trục với âm mưu tiến hành chiến tranh chia lại thế giới. Thời kì này cũng đánh dấu những nỗ lực bước đầu của các LX và các lực lượng tiến bộ dân chủ nhằm ngăn chiến tranh xảy ra. Bên cạnh đó khối đế quốc Anh, Pháp, Mĩ cũng thể hiện mưu đồ chống phá nhà nước XHCN bằng cách nhượng bộ, dung túng thoả hiệp với phe trục.
Câu 12: Nguyên nhân hình thành các lò lửa chiến tranh: Xem trang 23, 24, Lich sử thời cận đại (1640-1917), TS Đỗ Sơn Hải.

Câu 13: Chính sách Munich của Anh – Pháp
-        Bối cảnh: Đức, Nhật ngày càng có tiềm lực mạnh mẽ về kinh tế, quân sự và giới quân phiệt Đức chủ trương gây chiến tranh chia lại thế giới; Anh, Pháp chịu tổn thất nặng nề do khủng hoảng kinh tế và đang phục hồi châm; LX vẫn phát triển vững chắc và CNCS trở thành nguy cơ với các nước đế quốc.
-        Bản chất: Chính sách Munich chính là chính sách “thoả hiệp, dung túng, nuôi duỡng” chủ nghĩa phát xít của Anh, Pháp
-        Động cơ: Anh – Pháp và phe trục đều có kẻ thù chung là LX, do đó 2 nước này muốn lợi dụng phe Trục để tiêu diệt LX.
-        Mục đích:            
•        Anh – Pháp muốn thực hiện chiến lược “toạ sơn quan hổ đấu” – đẩy phe trục tấn công LX nhằm tiêu diệt cả hai kẻ thù lớn của Anh – Pháp là chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản đồng, thời hưởng lợi khi hai bên đã “sức tàn, lực kiệt”.
•        Anh – Pháp cũng ảo tưởng rằng phe Trục có thể chấp nhân đàm phán với mình trong vấn đề chia lại thế giới sau khi chiến tranh kết thúc.
-        Nội dung: Anh – Pháp làm ngơ, tạo điều kiện cho Đức, Nhật mở rộng xâm lược về phía biên giới LX.
-        Biện pháp thực thi:
•        Đức chiếm Áo mà ko vấp phải sự phản đối nào từ Anh – Pháp.
•        Đỉnh cao của chính sách này chính là hội nghị Munich tháng 9/1938, tại đó Anh – Pháp đã từng bước nhượng bộ để Đức chiếm trọn Tiệp Khắc.
•        Ngay cả khi tiến hành đàm phán Anh – Pháp – Xô, Anh – Pháp cũng chỉ muốn đánh lừa dư luận thế giới và tăng giá trong việc mặc cả với phe phát xít.
•        Anh bí mật đàm phán với Đức và sẵn sàng dâng Ba Lan và các nước khác cho Đức để đổi lại những quyền lợi cho mình.
•        Chính sách “Munich phương Đông”: Mặc dù có nhiều lợi ích ở Trung Quốc nhưng các nước đế quốc vẫn dung túng hành động xâm lược của Nhật. Hiệp định Anh – Nhật (7/1939) đã giao Trung Quốc cho Nhật để đổi lấy cuộc chiến tranh của Nhật chống LX.
-        Kết quả: Chính sách Munich của Anh – Pháp bị phá sản hoàn toàn
•        LX đã bí mật kí kết hiệp ước ko xâm phạm lẫn nhau với Đức ngày 23/08/1939. Điều này phá vỡ âm mưu đẩy Đức tấn công LX của Anh – Pháp. Đồng thời đào sâu mâu thuẫn nội bộ trong lòng chủ nghĩa đế quốc.
•        Phe Trục ngày càng mạnh với vùng ảnh hưởng rộng lớn và những nguồn tài nguyên dồi dào. Tuy nhiên, Đức và Nhật nhận thấy tiềm lực quân sự của mình còn yếu chưa đủ sức đánh bại LX trong ngày một ngày hai nên muốn lùi chiến dịch xâm lược LX đến khi tích luỹ đủ lực lượng nhằm “đánh quỵ LX bằng 1 cuộc chiến tranh chớp nhoáng”
•        Rõ ràng, mưu đồ của Đức, Ý, Nhật là muốn chia lại cả thế giới nên Anh – Pháp cũng là những đối tượng chính mà các nước phát xít hướng đến.

Câu 14: Hiệp ước không tấn công lẫn nhau Xô – Đức  1939
-        Bối cảnh:
•        Chiến tranh thế giới sắp sửa diễn ra, Đức và đồng minh đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến xâm lược Ba Lan.
•        Bọn đế quốc phương Tây tìm cách hướng mũi nhọn xâm lược của Đức về phía LX, phá hoại đàm phán Anh – Pháp – Xô.
•        LX đang thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 3 (1937-1942) nhằm phục hồi lại nền kinh tế đất nước
-        Mục đích:
•        Phía LX:
       Phá vỡ “chính sách” Munich của Anh – Pháp nhằm bao vây, cô lập và tiêu diệt nhà nước XHCN ở LX
       Cần có thêm thời gian để củng cố lực lượng, chuẩn bị sức người sức của cho cuộc chiến tranh Vệ quốc ko tránh khỏi.
•        Phía Đức: Nhận thấy tiềm lực của mình lúc này chưa đủ để đánh bại LX nhanh chóng và 1 cuộc chiến giằng co là ko có lợi cho các tính toán của Đức ở châu Âu nên Đức cần có thêm sự chuẩn bị cho việc xâm lược LX. Mặt khác thì các mục tiêu khác ở Tây Âu dễ dàng và cũng quan trọng ko kém đối với phe phát xít.
-        Kết quả - đánh giá:
•        Hiệp ước “không xâm phạm lẫn nhau” đã được kí kết giữa ngoại trưởng Nga Molotov và ngoại trưởng Đức Ribbentrop tại thủ đô Matxcơva ngày 23/08/1939 và có hiệu lực trong 10 năm.
•        Đây là thắng lợi ngoại giao quan trọng của LX: lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, nhờ đó phá thế bao vây, cô lập của Anh – Pháp, đồng thời tạo đủ thời gian để LX có thể tích luỹ sức người và của chuẩn bị cho chiến tranh.
•        Song nó cũng đủ tạo thời gian đáng kể để Đức phát xít tích luỹ lực lượng 5,5 triệu quân cùng vật lực và khí tài cho chiến dịch Barbarossa xâm lược LX vào tháng 6-1941

Câu 15: Nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thế giới thứ II và tính chất của nó
-        Nguyên nhân: Xem 1- phần I Bài 2: QHQT trong thời gian chiến tranh thế giới II – trang 20 (Lịch sử QHQT thời cận đại (1640-1917) – TS Đỗ Sơn Hải)
-        Tích chất: Khác CTTG I,  CTTG II là cuộc chiến mang đầy đủ hai tính chất: phi nghĩa và chính nghĩa. Cuộc chiến xét về phía các quốc gia phát động – phe trục Đức, Ý. Nhật và các đồng minh là cuộc chiến phi nghĩa. Còn cuộc chiến bảo vệ tổ quốc chống lại kẻ thù xâm lược do LX và các nước bị xâm lược tiến hành là cuộc chiến tranh chính nghĩa.

Câu 16: Liên minh chống phát xít trong Thế chiến II
-        Nguyên nhân:
•        Thảm họa phát xít trở thành nguy cơ lớn nhất đe dọa sự sống còn của đại đa số các quốc gia, buộc các nước mà trước hết là Mỹ, Anh, LX phải gạt bỏ sang bên các mâu thuẫn tiềm tàng.
       Chính sách “Muynich” phá sản hoàn toàn. Anh và Mỹ thừa hiểu rằng nếu Đức đánh chiếm thành công LX thì mục tiêu kế tiếp là Anh và cả Mỹ. Và lúc đó, sức mạnh của quân phát xít là khó chống đỡ nổi.
       Các quyền lợi của Anh, Mỹ trên thế giới đang bị đe dọa và xâm phạm nghiêm trọng.
       LX, mặc dù có lực lượng quân sự mạnh và bước đầu ngăn dc bước tiến của Đức nhưng LX vẫn cần thêm những giúp đỡ vật chất và chiến lược từ các nước để giành thắng lợi quyết định, đồng thời ko thể để Mỹ, Anh tiếp tục trục lợi bên ngoài cuộc chiến.
•        Nguyện vọng chống phát xít của đông đảo nhân dân các nước.
-        Quá trình hình thành (xem tài liệu)
-        Vấn đề mở mặt trận thứ 2

Câu 17: Vấn đề mở mặt trận thứ II trong CTTG II       
-        Bối cảnh :
•        Những chiến thắng của Hồng quân LX đã ngăn chặn dc bước tiến vũ bão của quân phát xít Đức, kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của Hitler về cơ bản đã bị thất bại.
•        Mỹ ko còn đứng ngoài cuộc chiến sau sự kiện Trân Châu Cảng
•        Anh chủ trương đánh chiếm Tây – Bắc Phi theo học thuyết “Chiến lược hành động gián tiếp” (chỉ tiến hành những trận đánh cuối cùng sau khi kẻ thù đã bị tiêu hao và kiệt quệ bởi sự phong tỏa, oanh tạc hoặc bởi những chiến dịch riêng rẽ trên những mặt trận thứ yếu.
•        LX từ sớm đã đề nghị Anh – Mỹ mở mặt trận chống phát xít ở Tây Âu.
-        Tiến trình đàm phán mở mặt trận thứ hai:
•        Năm 1941, Anh – Mỹ thống nhất quan điểm tấn công vào Tây – Bắc Phi thông qua việc thành lập Bộ Chỉ huy thống nhất.
•        3/4/1942, Mỹ có kế hoạch thực hiện chiến dịch Bolero trong năm 1943 hoặc chiến dịch Sledgehammer vào cuối năm 1942.
•        26/5/2942, hiệp ước liên minh Anh – Xô đc kí kết với nội dung cơ bản là 2 nước cam kết sẽ giúp đỡ nhau cùng chống Đức và các đồng minh của Đức.
•        29/5/1942, đoàn dại biểu LX sang Mỹ và đã kí dc Hiệp ước thỏa thuận nguyên tắc giúp đỡ trong phối hợp hành động chống xâm lược giữa 2 nước vào 10/6/1942. Dưới tác động của LX, Anh – Mỹ đều đi đến nhận định rằng vấn đề mở mặt trận thứ 2 là “nhiệm vụ ko thể trì hoãn đc trong năm 1942” mặc dù hành động trên thực tế của Anh – Mỹ ko giống với tuyên bố (vẫn quyết định mở hàng loạt chiến dịch tại mặt trận Tây – Bắc Phi)
•        Đến hội nghị Trident (5/1943), trước những thắng lợi vang dội của Hồng quân LX (chuyển từ phòng ngự sang phản công), Anh – Mỹ đã xác nhận thời điểm đổ bộ vào nước Pháp trong 5/1944 và hành động này đã dc khẳng định tại hội nghị Ngoại trưởng tam cường ở Matxcova và Hội nghị cấp cao Têhêran cuối năm 1943.
-        Kết quả và đánh giá:
•        Ngày 6/6/1944, quân đội đồng minh mở chiến dịch đổ bộ lên bờ biển Normandy thuộc Pháp, mặt trận thứ hai chính thức được thiết lập trên chiến trường Châu Âu.
•        Việc quân đội Mĩ – Anh mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu tuy muộn và ko đóng góp nhiều về quân sự nhưng cũng là 1 sự cổ vũ về mặt tinh thần, góp phần thúc đẩy nhanh sự thất bại của phát xít Đức. Lần đầu tiên kể từ ngày bắt đầu chiến tranh, nước Đức mới bị ép ở giữa hai mặt trận Đông – Tây.
•        Nguyên nhân Anh – Mỹ trì hoãn mặt trân thứ 2:
       Ko ưa LX (nhưng vẫn ko để LX thất bại lúc này)
       Ngại tham chiến trực tiếp với Đức vì chưa có nhiều kinh nghiệm chiến trường
       Mong muốn cuộc chiến Xô – Đức kéo dài để chuộc lợi.
•        Nguyên nhân Anh – Mỹ quyết định mở mặt trân thứ 2:
       Lo ngại sự bành trướng của LX ở châu Âu
       Chia chiến lợi phẩm sau cuộc chiến
       Có ý đồ đặt điều kiện mở mặt trận châu Á – TBD với LX
•        Nguyên nhân LX chấp nhận mặt trận thứ 2 dc mở vào mùa hè 1944: nhanh chóng kết thúc chiến tranh và giảm nhẹ dc phần nào tổn thất.

Câu 18: Cơ sở dẫn đến đàm phán Mỹ - Anh – LX trong thời gian Thế Chiến II
-        Cục diện chiến trường:
•        Đức từ thế tấn công chuyển sang phòng ngự rồi rút chạy nhanh chóng đánh bại chủ nghĩa phát xít, chấm dứt chiến tranh.
•        Trật tự thế giới thời hậu chiến, lợi ích của các bên cũng là nội dung mà các cường quốc quan tâm.
-        Tương quan lực lượng: 3 cường quốc có vai trò lãnh đạo liên minh chống phát xít
•        LX chiếm ưu thế ở chiến trường châu Âu
•        Mỹ tham chiến có ý nghĩa quan trọng đến kết thúc chiến tranh
•        Anh tuy bị suy yếu nhưng vẫn có thế mạnh về thuộc địa.
-        Ý đồ của mỗi nước:
•        LX: tăng cường sức mạnh để chiến thắng phát xít Đức; buộc Anh – Mỹ chia sẻ gánh nặng chiến tranh; ngăn chặn khả năng 2 nước đế quốc đàm phán riêng rẽ với phe Trục; tìm hiểu ý đồ của Anh – Mỹ sau chiến tranh.
•        Anh – Mỹ: chia chiến lợi phẩm, giữ gìn hệ thống thuộc địa và những khu vực ảnh hưởng; lôi kéo LX vào mặt trận chống Nhật; đáp ứng dư luận trong nước.

Câu 19: Hình thành Liên Hợp Quốc
-        Nguyên nhân ra đời:
•        Cần 1 tổ chức quốc tế đóng vai trò giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới sau CTTG II
•        Mô hình tổ chức của Hội Quốc liên ko còn phù hợp
-        Quá trình hình thành:
•        Hiến chương Đại Tây Dương (1/1/1942) đánh dấu sự thống nhất giữa các quốc gia trong việc đẩy lùi nguy cơ của CNPX.
•        Quyết tâm thành lập 1 tổ chức thế giới mới nhằm giữ gìn hòa bình và an ninh quốc tế, trong đó tất cả các quốc gia lớn nhỏ đều dc tham gia trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, đã dc 3 cường quốc LX – Mỹ – Anh khẳng định lại tại Hội nghị ngoại trưởng tam cường ở Matcova (10-11/1943), Hội nghị thượng đỉnh Têhêran (11-12/1943), Hôi nghị quốc tế Dumbarton Oak (21-28/9/1944) và đặc biệt là Hội nghị Yalta (2/1945).
•        Hội nghị thành lập LHQ họp tại San Francisco từ 25/4/1945 với 50 nước tham dự. 26/6, các nước dự hội nghị đã kí vào bản Hiến chương LHQ.
•        25/10/1945, LHQ chính thức ra đời sau khi các nước thành viên thường trực phê chuẩn Hiến chương đã kí trước đó.
-        Đánh giá:
•        Sự ra đời của LHQ chứng minh quyết tâm chung của toàn nhân loại chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình và các quyền thiêng liêng khác của các quốc gia.
•        LHQ đã đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hóa bình và an ninh thế giới, nhất là từ sau chiến tranh lạnh.

Câu 20: Đánh giá những kết quả đạt được tại hội nghị Yalta 2/1945
-        Kết quả:
•        Vấn đề kết thúc chiến tranh và xử lí các nước phe Trục
•        Vấn đề phân chia khu vực kiểm soát và ảnh hưởng
•        Vấn đề tổ chức LHQ
-        Đánh giá:
•        Những quyết định của hội nghị là cơ sở để hình thành 1 trật tự thế giới mới – trật tự 2 cực Yalta.
•        Những quyết định của hội nghị góp phần thúc đẩy sự thất bại của phát xít Đức, Nhật
•        Những kết quả này phản ánh tương đối chính xác cục diện quân sự cũng như thể hiện sự thỏa thuận, nhượng bộ giữa 3 cường quốc.
•        Việc nhất trí thành lập LHQ có ý nghĩa lớn với việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới          


TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO

Nguồn: Trương Xuân Quốc - CT37 - DAV