HỌC THUYẾT KINH TẾ TRỌNG THƯƠNG
I - Hoàn cảnh
ra đời
Chủ nghĩa trọng
thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, ra đời trước hết ở Anh
vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa thế kỷ thứ XVII và sau đó bị suy
đồi. Nó ra đời trong bối cảnh phương thức sản xuất phong kiến tan rã, phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa mới ra đời:
+ Về mặt lịch
sử:
Đây là thời kỳ tích
luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản ngày càng tăng, tức là thời kỳ tước đoạt
bằng bạo lực nền sản xuất nhỏ và tích luỹ tiền tệ ngoài phạm vi các nước Châu
Âu, bằng cách cướp bóc và trao đổi không ngang giá với các nước thuộc địa thông
qua con đường ngoại thương.
+Về kinh
tế: Kinh tế hàng hoá phát triển, thương nghiệp có ưu thế hơn sản xuất,
tầng lớp thương nhân tăng cường thế lực Do đó trong thời kỳ này thương nghiệp
có vai trò rất to lớn. Nó
đòi hỏi phải có lý
thuyết kinh tế chính trị chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động thương nghiệp.
+ Về mặt chính
trị:
Giai cấp tư sản lúc
này mới ra đời, đang lên, là giai cấp tiên tiến có cơ sở kinh tế tương đối mạnh
nhưng chưa nắm được chính quyền, chính quyền vẫn nằm trong tay giai cấp quý
tộc, do đó chủ nghĩa trọng thương ra đời nhằm chống lại chủ nghĩa phong kiến.
+ Về phương
diện khoa học tự nhiên:
Điều đáng chú ý
nhất trong thời kỳ này là những phát kiến lớn về mặt địa lý như: Crixtốp Côlông
tìm ra Châu Mỹ, Vancôđơ Gama tìm ra đường sang Ấn Độ Dương… đã mở ra khả năng
làm giàu nhanh chóng cho các nước phương Tây.
+ Về mặt tự
tưởng, triết học:
Thời kỳ xuất hiện
chủ nghĩa trọng thương là thời kỳ phục hưng, trong xã hội đề cao tư tưởng tư
sản, chống lại tư tưởng đen tối của thời kỳ trung cổ, chủ nghĩa duy vật chống
lại những thuyết giáo duy tâm của nhà thờ…
II - Đặc điểm của chủ nghĩa trọng
thương
Chủ nghĩa trọng
thương là những chính sách cương lĩnh của giai cấp tư sản (tầng lớp tư sản
thương nghiệp Châu Âu trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản.
Những chính sách, cương lĩnh này nhằm kêu gọi thương nhân tận dụng ngoại
thương, buôn bán để cướp bóc thuộc địa và nhằm bảo vệ lợi ích cho giai cấp tư
sản đang hình thành.
+ Những tư tưởng kinh
tế chủ yếu của họ còn đơn giản, chủ yếu là mô tả bề ngoài của các hiện tượng và
quá trình kinh tế, chưa đi sâu vào phân tích được bản chất của các hiện tượng
kinh tế.
+ Chủ nghĩa trọng
thương chưa hiểu biết các quy luật kinh tế, do đó họ rất coi trọng vai trò của
nhà nước đối với kinh tế.
+ Chủ nghĩa trọng
thương chỉ mới dừng lại nghiên cứu lĩnh vực lưu thông mà chưa nghiên cứu lĩnh
vực sản xuất.
+ Chủ nghĩa trọng
thương mặc dù có những đặc trưng cơ bản giống nhau, nhưng ở các nước khác nhau
thì có những sắc thái dân tộc khác nhau. Ví dụ: ở Pháp chủ nghĩa trọng thương
kỹ nghệ Pháp, ở Tây Ban Nha là chủ nghĩa trọng thương trọng kim, ở Anh là chủ nghĩa
trọng thương trọng thương mại.
Tóm lại, chủ
nghĩa trọng thương ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Lý luận còn đơn
giản
thô sơ, nhằm thuyết
minh cho chính sách cương lĩnh chứ không phải là cơ sở của chính sách cương
lĩnh. Mặt khác, đã có sự khái quát kinh nghiệm thực tiễn thành quy tắc, cương
lĩnh, chính sách. Có thể nói chủ nghĩa trọng thương là hiện thực và tiến bộ
trong điều kiện lịch sử lúc đó.
III - Những
tư tưởng kinh tế chủ yếu và các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa trọng thương
Những tư
tưởng kinh tế chủ yếu
+ Thứ nhất, họ đánh
giá cao vai trò của tiền tệ, coi tiền tệ (vàng bạc) là tiêu chuẩn cơ bản của
của cải. Theo họ “một xã hội giàu có là có được nhiều tiền”, “sự giầu có tích
luỹ được dưới hình thái tiền tệ là sự giàu có muôn đời vĩnh viễn”.
Tiền là tiêu chuẩn
căn bản của của cải, đồng nhất tiền với của cải và sự giàu có, là tài sản thực
sự của một quốc gia. Quốc gia càng nhiều tiền thì càng giàu, hàng hoá chỉ là
phương tiện làm tăng khối lượng tiền tệ.
Tiền để đánh giá
tính hữu ích của mọi hình thức hoạt động nghề nghiệp.
+ Thứ hai, để có
tích luỹ tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại, mà trước hết là ngoại
thương, họ cho rằng: “nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là máy bơm”,
“muốn tăng của cải phải có ngoại thương dẫn của cải qua nội thương”. Từ đó đối
tượng nghiên cứu của chủ nghĩa trọng thương là lĩnh vực lưu thông, mua bán trao
đổi.
+ Thứ ba, họ cho
rằng, lợi nhuận là do lĩnh vực lưu thông buôn bán, trao đổi sinh ra. Do đó chỉ
có thể làm giàu thông qua con đường ngoại thương, bằng cách hy sinh lợi ích của
dân tộc khác (mua rẻ, bán đắt).
+ Thứ tư, Chủ nghĩa
trọng thương rất đề cao vai trò của nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để
phát triển kinh tế vì tích luỹ tiền tệ chỉ thực hiện được nhờ sự giúp đỡ của
nhà nước. Họ đòi hỏi nhà nước phải tham gia tích cực vào đời sống kinh tế để
thu hút tiền tệ về nước mình càng nhiều càng tốt, tiền ra khỏi nước mình càng
ít càng phát triển.
IV - Các giai đoạn phát triển, những đại biểu tiêu
biểu của trường phái
1 - Thời kỳ đầu: (còn gọi là
giai đoạn học thuyết tiền tệ - “Bảng cân đối tiền tệ”)
Từ giữa thế kỷ thứ
XV kéo dài đến giữa thế kỷ thứ XVI, đại biểu xuất sắc của thời kỳ này là:
- Starford (người
Anh)
- Xcanphuri (người
Italia)
Tư tưởng trung tâm
của thời kỳ này là: bảng hệ thống (cân đối) tiền tệ. Theo họ “cân đối tiền tệ”
chính là ngăn chặn không cho tiền tệ ra nước ngoài, khuyến khích mang tiền từ
nước ngoài về. Để thực hiện nội dung của bảng “cân đối tiền tệ” họ chủ trương
thực hiện chính sách hạn chế tối đa nhập khẩu hàng ở nước ngoài, lập hàng rào
thuế quan để bảo vệ hàng hoá trong nước, giảm lợi tức cho vay để kích thích sản
xuất và nhập khẩu, bắt thương nhân nước ngoài đến buôn bán phải sử dụng số tiền
mà họ có mua hết hàng hoá mang về nước họ.
Giai đoạn đầu chính
là giai đoạn tích luỹ tiền tệ của chủ nghĩa tư bản, với khuynh hướng chung là
biện pháp hành chính, tức là có sự can thiệp của nhà nước đối với vấn đề kinh
tế.
2 - Thời
kỳ sau: (còn gọi là học thuyết về bảng cân đối thương mại)
Từ cuối thế kỷ thứ
XVI kéo dài đến giữa thế kỷ thứ XVIII, đại biểu xuất sắc của thời kỳ này là:
- Thomas Mun (1571
– 1641), thương nhân người Anh, giám đốc công ty Đông Ấn;
- Antonso Serra
(thế kỷ XVII), nhà kinh tế học người Italia;
- Antoine
Montchretien (1575 – 1621), nhà kinh tế học Pháp.
Thời kỳ này chủ
nghĩa trọng thương được coi là chủ nghĩa trọng thương thực sự: Họ không coi
“cân đối tiền tệ” là chính mà coi “cân đối thương nghiệp” là chính: cấm xuất
khẩu công cụ và nguyên liệu, thực hiện thương mại trung gian, thực hiện chế độ
thuế quan bảo hộ kiểm soát xuất nhập khẩu, khuyến khích xuất khẩu và bảo vệ
hàng hoá trong nước và các xí nghiệp công nghiệp - công trường thủ công. Đối
với nhập khẩu: tán thành nhập khẩu với quy mô lớn các nguyên liệu để chế biến
đem xuất khẩu. Đối với việc tích trữ tiền: cho xuất khẩu tiền để buôn bán, phải
đẩy mạnh lưu thông tiền tệ vì đồng tiền có vận động mới sinh lời, do đó lên án
việc tích trữ tiền.
So với thời kỳ đầu,
thời kỳ sau có sự phát triển cao hơn (đã thấy được vai trò lưu thông tiền tệ và
phát triển sản xuất được quan tâm đặc biệt). Trong biện pháp cũng khác hơn,
không dựa vào biện pháp hành chính là chủ yếu mà dựa vào biện pháp kinh tế là
chủ yếu. Tuy vậy vẫn cùng mục đích: Tích luỹ tiền tệ cho sự phát triển chủ
nghĩa tư bản, chỉ khác về phương pháp và thủ đoạn.
Nhìn chung học
thuyết kinh tế của chủ nghĩa trọng thương ở hai giai đoạn đều cho rằng nhiệm vụ
kinh tế của mỗi nước là phải làm giàu và phải tích luỹ tiền tệ. Tuy nhiên các
phương pháp tích luỹ tiền tệ là khác nhau. Vào cuối thế kỷ thứ XVII, khi nền
kinh tế của chủ nghĩa tư bản phát triển chủ nghĩa trọng thương đã đi vào con
đường tan rã, sớm nhất là ở Anh.
Quá trình tan rã của
chủ nghĩa trọng thương:
Sự tan rã của chủ
nghĩa trọng thương là một tất yếu vì:
+ Sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của chủ nghĩa tư bản đã chuyển
sang thời kỳ phát triển sản xuất tư bản chủ nghĩa, lợi ích của giai cấp tư sản
đã chuyển sang cả lĩnh vực sản xuất. Ảo tưởng làm giàu, bóc lột nước nghèo
thuần tuý nhờ hoạt động thương mại không thể tồn tại. Tính chất phiến diện của
chủ nghĩa trọng thương đã bộc lộ.
+ Thực tế đòi hỏi
phải phân tích, nghiên cứu sâu sắc sự vận động của nền sản xuất tư bản chủ
nghĩa như: bản chất các phạm trù kinh tế (hàng hoá, giá trị, tiền tệ, tư bản,
lợi nhuận,…), nội dung và vai trò của các quy luật kinh tế (quy luật giá trị,
cạnh tranh, cung cầu,…). Chủ nghĩa trọng thương không giải quyết được các vấn
đề kinh tế đặt ra.
+ Các chính sách
theo quan điểm trọng thương đã hạn chế tự do kinh tế, mâu thuẫn với đông đảo
tầng lớp tư bản công nghiệp trong giai cấp tư sản, trong nông nghiệp, nội
thương.
Với sự tan rã của
chủ nghĩa trọng thương, các học thuyết kinh tế tư sản cổ điển ra đời thay thế
trong đó nổi bật là học thuyết của chủ nghĩa trọng nông Pháp và học thuyết kinh
tế tư sản cổ điển Anh.
V - Đánh giá chung
Thành tựu
+ Những luận điểm
của chủ nghĩa trọng thương so sánh với nguyên lý trong chính sách kinh tế thời
kỳ Trung cổ đã có một bước tiến bộ rất lớn, nó thoát ly với truyền thống tự
nhiên, từ bỏ việc tìm kiếm công bằng xã hội, những lời giáo huấn lý luận được
trích dẫn trong Kinh thánh
+ Hệ thống quan
điểm của chủ nghĩa trọng thương đã tạo ra những tiền để lý luận kinh tế cho
kinh tế học sau này, cụ thể:
- Đưa ra quan điểm,
sự giàu có không chỉ là những giá trị sử dụng mà còn là giá trị, là tiền;
- Mục đích hoạt
động của nền kinh tế hàng hoá là lợi nhuận;
- Các chính sách
thuế quan bảo hộ có tác dụng rút ngắn sự quá độ từ chủ nghĩa phong kiến sang
chủ nghĩa tư bản;
- Tư tưởng nhà nước
can thiệp vào hoạt động kinh tế là một trong những tư tưởng tiến bộ.
Hạn chế
+ Những luận điểm
của chủ nghĩa trọng thương có rất ít tính chất lý luận và thường được nêu ra
dưới hình thức những lời khuyên thực tiễn về chính sách kinh tế. Lý luận mang
nặng tính chất kinh nghiệm (chủ yếu thông qua hoạt động thương mại của Anh và
Hà Lan).
+ Những lý luận của
chủ nghĩa trọng thương chưa thoát khỏi lĩnh vực lưu thông, nó mới chỉ nghiên
cứu những hình thái của giá trị trao đổi. Đánh giá sai trong quan hệ trao đổi,
vì cho rằng lợi nhuận thương nghiệp có được do kết quả trao đổi không ngang giá.
+ Nặng về nghiên
cứu hiện tượng bên ngoài, không đi sâu vào nghiên cứu bản chất bên trong của
các hiện tượng kinh tế.
+ Một hạn chế rất
lớn của chủ nghĩa trọng thương đó là đã quá coi trọng tiền tệ (vàng, bạc), đã
đứng trên lĩnh vực thô sơ của lưu thông hàng hoá để xem xét nền sản xuất TBCN.
+ Trong kinh tế đề
cao vai trò của nhà nước thì lại không thừa nhận các quy luật kinh tế.
Tóm tắt
+ Về hoàn cảnh ra
đời và đặc điểm của chủ nghĩa trọng thương:
Chủ nghĩa trọng
thương ra đời trước hết ở Anh vào khoảng những năm 1450, phát triển tới giữa
thế kỷ thứ XVII và sau đó bị suy đồi tan rã. Nó ra đời trong bối cảnh phương
thức sản xuất phong kiến tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời.
Chủ nghĩa trọng
thương là lý luận kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản (tầng lớp tư sản thương
nhân trong điều kiện chế độ phong kiến tan rã nhưng giai cấp phong kiến vẫn nắm
địa vị thống trị, giai cấp tư sản đang lên là giai cấp tiên tiến, có cơ sở kinh
tế tương đối mạnh nhưng chưa nắm quyền thống trị.
Đặc điểm cơ bản của
chủ nghĩa trọng thương là: rất ít tính lý luận nhưng lại rất thực tiễn. Tư
tưởng của chủ nghĩa trọng thương còn mang tính không triệt để vì thế không chỉ
giai cấp tư sản mà cả giai cấp quý tộc cũng để phục vụ lợi ích của mình. Chủ
nghĩa trọng thương còn mang tính dân tộc, nó xuất hiện một cách độc lập ở hầu
hết các nước Tây Âu, mỗi nước có sắc thái riêng phản ánh đặc điểm kinh tế của
các nước đó.
+ Những nội dung cơ
bản của chủ nghĩa trọng thương:
Chủ nghĩa trọng
thương là tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, trực tiếp phản ánh lợi
ích của giai cấp tư sản thương nghiệp trong thời kỳ tích luỹ nguyên thuỷ của
chủ nghĩa tư bản:
- Đánh giá cao vai
trò của tiền tệ, coi tiền tệ (vàng, bạc) là tiêu chuẩn cơ bản của của cải.
- Để có tích luỹ
tiền tệ phải thông qua hoạt động thương mại, mà trước hết là ngoại thương.
- Họ cho rằng, lợi
nhuận là do lĩnh vực lưu thông buôn bán, trao đổi sinh ra.
- Đề cao vai trò của
nhà nước.
+
Đánh giá chung:
Tuy còn hạn chế về
lý luận song hệ thống quan điểm của chủ nghĩa trọng đã tạo ra những tiền đề
kinh tế cho các lý thuyết kinh tế thị trường sau này, đặc biệt là những quan
điểm về vai trò kinh tế của nhà nước.
TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét