TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
Nội dung:
I- Bức
tranh toàn cảnh của các TNCs tại Việt Nam
II- Tác
động của các TNCs đối với nền kinh tế
1/ Các mặt tích cực
2/ Các mặt tiêu cực và hạn chế
III- Đề
xuất đối với các TNCs ở Việt Nam
IV- Kết luận
I - Bức tranh toàn cảnh
các công ty xuyên quốc(TNCs) gia tại Việt Nam:
- Số lượng: Số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư cho biết:
tính đến cuối tháng tư năm nay có 106 trong danh sách 500 TNCs lớn nhất thế giới
(theo xếp hạng của tạp chí Fortune năm 2006) có mặt tại Việt Nam, với 214 dự
án, 11,09 tỷ USD vốn đăng ký và 8,59 tỷ USD vốn thực hiện, chiếm khoảng 20% tổng
nguồn vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Hình thức đầu tư: Các TNC hầu hết lựa
chọn đầu tư 100% vốn nước ngoài, chiếm 50% vốn đăng ký hiện nay và hình thức
này đang có xu hướng gia tăng.
- Phân bố: Cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ
có xu hướng đi từ hai đầu đất nước tiến về Miền Trung, từ ven biển dần vào sâu
trong nội địa. Đó cũng là một tất yếu vì ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh cũng
như các tỉnh ven biển có điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc
cũng như các điều kiện thuận lợi khác. Bên cạnh đó là do thay đổi về cơ cấu
ngành cần nhiều lao động có tay nghề, các vùng miền núi xa xôi khó đáp ứng được
yêu cầu nên vẫn chưa thu hút được sự chú trọng đầu tư của các nhà đầu tư nước
ngoài.
Đầu tư trực tiếp Nhật Bản tại Việt
Nam theo địa phương (1988 - 2005)
(Tính tới ngày 31/12/2005 - Chỉ tính các dự án còn hiệu lực)
Đơn vị tính: Đô la Mỹ.
STT
|
Địa phương
|
Số dự án
|
Tổng vốn đầu tư
|
Vốn pháp định
|
Vốn đã thực hiện
|
1
|
Hà Nội
|
139
|
1.812.037.234
|
909.896.595
|
719.873.637
|
2
|
TP. Hồ Chí Minh
|
196
|
1.053.314.083
|
468.506.264
|
542.134.848
|
3
|
Đồng Nai
|
55
|
955.842.529
|
437.077.655
|
504.036.912
|
4
|
Thanh Hoá
|
2
|
622.517.000
|
180.635.000
|
341.800.000
|
5
|
Bình Dương
|
54
|
477.090.031
|
190.922.293
|
172.542.318
|
6
|
Hải Phòng
|
51
|
397.384.974
|
220.250.550
|
133.649.050
|
7
|
Bắc Ninh
|
6
|
143.980.291
|
54.228.291
|
126.000.000
|
8
|
Bà Rịa – Vũng Tàu
|
6
|
136.575.700
|
44.695.700
|
97.646.710
|
9
|
Đà Nẵng
|
9
|
76.581.714
|
37.221.714
|
16.352.225
|
10
|
Sơn La
|
1
|
2.500.000
|
800.000
|
800.000
|
- Nguồn gốc: Các TNC ở Việt Nam có
nguồn gốc chủ yếu từ các nước châu Á. Theo số liệu năm 2002, cả nước có
669 dự án FDI được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng kí 1,333 tỉ USD. Số dự án
và vốn nhiều nhất thuộc về khu vực Đông Á (0,94 tỉ USD), sau đó đến châu Âu
(0,2 tỉ USD) và Mỹ (0,14 tỉ USD)
- Loại hình: Các TNC hoạt động ở Việt
Nam phần lớn đều thuộc loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ, chủ yếu đầu tư vào
các ngành điện tử, dệt may, nông lâm hải sản chế biến, dịch vụ du lịch và khách
sạn.
II – Tác động của các TNCs đối với nền kinh tế Việt Nam:
1/ Các mặt tích cực:
· Cung cấp nguồn vốn quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa
của đất nước
Nguồn vốn của các công ty xuyên quốc
gia là một nguồn lực quan trọng trong việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế nước ta. Việt Nam tiến hành công nghiệp hóa trong điều kiện tích lũy
còn thấp, nhu cầu về vốn lớn đòi hỏi phải khai thác cả trong và ngoài nước.
Nhưng điều quan trọng hơn của nguồn vốn
này đó là nhờ có nó, nhiều nguồn lực trong nước ngày càng giữ vai trò quan trọng
trong tổng đầu tư xã hội: vốn đầu tư nước ngoài, vốn của các doanh nghiệp trong
nước có thể khơi dậy để đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh ngay trên thị trường
nội địa. Nhờ nguồn vốn này, nhiều ngành mới đã được hình thành và phát triển; đồng
thời nguồn vốn công nghệ cũng đã giúp chúng ta tiếp cận được với một số lĩnh vực
hiện đại.
· Góp phần thực hiện sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Các TNCs góp phần tích cực thực hiện
sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Sự tiến bộ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nước nông nghiệp chuyển
dần thành một nước công nghiệp của nước ta trong thời gian qua có đóng góp
không nhỏ của các TNCs. Các TNCs giúp tăng nhanh tỷ trọng của sản xuất công
nghiệp, đặc biệt là của các ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân. Các
TNCs chiếm tỷ trọng cao trong các ngành sản xuất công nghiệp (gần 35% giá trị sản
xuất toàn ngành công nghiệp), tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới, góp phần tạo
ra bước ngoặt trong sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Bảng: Cơ cấu GDP theo ngành
kinh tế qua các năm, Đơn vị: %
Năm
|
1985
|
1995
|
1997
|
2000
|
2001
|
2002
|
2003
|
2004
|
2011
|
GDP
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
100,0
|
Nông - lâm - thủy sản
|
40,2%
|
27,18
|
25,77
|
24,53
|
23,24
|
23,03
|
22,54
|
21,8
|
22,02%
|
Công nghiệp và xây dựng
|
27,4%
|
28,76
|
32,08
|
36,73
|
38,13
|
38,49
|
39,47
|
40,2
|
40,79%
|
Dịch vụ
|
32,4%
|
44,06
|
42,15
|
38,73
|
38,63
|
38,48
|
37,99
|
38,0
|
37,19%
|
Nguồn: Tổng hợp số liệu của
Tổng cục Thống kê
· Phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm
Các công ty xuyên quốc gia đã tác động
đến việc phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm theo cả hai cách trực tiếp
và gián tiếp. Thông qua các dự án đầu tư, các công ty xuyên quốc gia đã tạo ra
nhiều việc làm cho lao động địa phương đồng thời đào tạo lực lượng lao động địa
phương để phục vụ cho nhu cầu hoạt động của công ty mình.
Bên cạnh đó, sự hoạt động của các
công ty xuyên quốc gia đã tạo ra rất nhiều cơ hội, động lực cho sự phát triển của
lực lượng lao động theo đuổi mục tiêu có thu nhập cao. Đặc biệt các nước đang
phát triển như Việt Nam thì vai trò của các công ty xuyên quốc gia lại càng trở
nên quan trọng hơn, nó giúp chúng ta phát triển nguồn lực lao động, nhất là đội
ngũ có trình độ chuyên môn kĩ thuật và quản lý, từ đó tạo tiền đề quan trọng để
nâng cao năng suất lao động.
Ngoài ra các công ty xuyên quốc gia
thường có các hoạt động trợ giúp tài chính cho các chương trình nghiên cứu và
đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp các thiết bị khoa học phục vụ cho việc đào tạo.
· Thúc đẩy tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế
Để có thể hội nhập kinh tế quốc tế,
chúng ta cần có một nền kinh tế ổn định, tăng trưởng đều. Các công ty xuyên quốc
gia đã giúp chúng ta giải quyết được các vấn đề này. Bên cạnh đó các công ty
xuyên quốc gia cũng giúp tăng trưởng xuất khẩu, từ đó nhanh chóng hội nhập vào
thị trường quốc tế.
Các công ty xuyên quốc gia, làm cho
các doanh nghiệp Việt Nam phải tự thay đổi để thích ứng và cạnh tranh tốt. Có
thể nói các công ty xuyên quốc gia đã góp phần đưa Việt Nam tham gia vào sự
phân công lao động quốc tế, đồng thời giúp các doanh nghiệp Việt Nam thích ứng
cao nhất với các đòi hỏi của nền kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập.
Ví dụ: Theo Ngân hàng thế giới báo cáo, trong năm 2009, Việt Nam được xếp vào
một trong 20 quốc gia có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khắp toàn cầu với mức
tăng trưởng GDP 5,3%. Theo dự đoán của Price waterhouse Cooper năm 2008, Việt
Nam có thể là nền kinh tế mới nổi tăng trưởng nhanh nhất thế giới năm 2025, với
mức tăng trưởng tiêm năng gần 10%.
Nguồn: www.asiancoastdevelopment.asia
2/ Các mặt tiêu cực:
· Phát triển không đồng đều giữa các ngành và các vùng miền.
Mục tiêu của các công ty xuyên quốc
gia là lợi nhuận, doanh số và ưu thế cạnh
tranh. Nó thường xuyên mâu thuẫn với mục tiêu, chiến lược chung về phát triển
kinh tế xã hội của Việt Nam là tăng trưởng đồng đều, cao và bền vững. Vì vậy
các công ty xuyên quốc gia thường lựa chọn đầu tư vào các lĩnh vực, các vùng miền
có thị trường lớn, bảo toàn được vốn và thu được lợi nhuận cao, còn các ngành,
các vùng có lãi suất thấp, yêu cầu đầu tư vốn lớn, chuyển vốn chậm không thu
hút được các công ty xuyên quốc gia. Điều này dẫn đến sự phân bổ không đồng đều
của sự đầu tư của TNCs giữa các vùng miền và các ngành kinh tế. Dẫn đến sự phát
triển kinh tế không đồng đều giữa các vùng miền và các ngành kinh tế.
Ví dụ : Tỉ lệ đầu tư lớn nhất dành
cho các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam: HCM, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa
Vũng Tàu; phía Bắc: Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh. Miền Bắc chiếm
27%, miền Trung 9%, miền Nam 64%.
- Áp lực cạnh tranh
Sự đầu tư của TNCs vào Việt Nam đã
mang các mặt hàng kinh tế vào thị trường Việt Nam. Các mặt hàng này có thể có
chất lượng cao hơn, giá thành rẻ hơn bởi vì họ sử dụng công nghệ cao hơn sẽ
chèn ép, cạnh tranh với các mặt hàng trong nước, làm cho sức tiêu các mặt hàng
trong nước giảm dần và dần thay thế các mặt hàng trong nước. Dẫn đến việc Việt
Nam bị phụ thuộc vào nước ngoài về mặt hàng kinh tế đó.
Ví dụ: Từ năm 2008 đến nay, thị trường thuốc bảo vệ thực vật, có 142 công
ty, trong đó có 5 công ty xuyên quốc gia đến từ Thụy Sĩ, Hoa Kì, Nhật Bản,
Hongkong, Trung Quốc chiếm phần lớn nguồn cung, khiến cạnh tranh trở nên gay gắt
và các doanh nghiệp trong nước gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường tiêu
thụ, nhiều doanh nghiệp buộc phải mở rộng việc xuất khẩu sang các thị trường
Lào và Campuchia.
Nguồn: cafef.vn
- Một số TNCs lạm dụng ưu thế về vốn,
công nghệ để thao túng và gây hậu quả xấu, thậm chí gây sức ép với cơ quan
quản lý nhà nước
Trong một số liên doanh, các TNCs nước
ngoài sử dụng các ưu thế của mình để chèn ép các doanh nghiệp trong nước, hướng
tới độc quyền trong nền kinh tế tự do hóa hiện nay. Việc các mặt hàng của các
TNCs độc chiếm thị trường Việt Nam sẽ dẫn đến rất nhiều hệ quả, ví dụ trong trường
hợp công ty xuyên quốc gia đó lâm vào khủng hoảng thì nó sẽ làm ảnh hưởng đến nền
kinh tế Việt Nam. Sự khủng hoảng về kinh tế sẽ dẫn đến các bất ổn về chính trị.
Vì vậy Việt Nam cần phải cảnh giác với sự liên kết của các TNC với các doanh
nghiệp nhà nước, tránh để xảy ra những tiêu cực.
Ví dụ: Trong thời gian vừa qua, việc công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi của
Trung Quốc là C.P Pokphand (CPP) mua và giành quyền kiểm soát Công ty Cổ phần
Chăn nuôi CP Việt Nam dẫn đến mối lo ngại thị trường chăn nuôi bị nước ngoài
thao túng.
Nguồn: www.cand.com.vn
- Công nghệ lạc hậu
Với mục tiêu giảm tối thiểu chi phí sản
xuất và chi phí chuyển giao công nghệ, các TNCs mang đến Việt Nam những công
nghệ đã lỗi thời hoặc không còn sử dụng được ở nước sở tại. Việt Nam trở thành
nơi tiêu thụ cho các công nghệ hết hạn đó. Đồng thời việc chuyển giao công nghệ
quá nhanh sẽ dẫn đến việc lao động Việt Nam không thích ứng nhanh chóng được.
Ví dụ: Năm 2011, một số công ty
may mặc của Trung Quốc chuyển giao công nghệ lạc hậu vào Việt Nam bằng việc vận
chuyển các máy móc đã lỗi thời hoặc đã quá hạn sử dungh, sau một thời gian bỏ
không vì không còn sử dụng được.
- Ô nhiễm môi trường
Các
TNCs nhiều lúc vẫn chưa chấp hành đúng các quy định của Việt Nam về bảo vệ môi
trường. Trong khi khai thác hay chế biến sản xuất, các một số các TNCs vẫn bỏ
qua các giai đoạn cần thiết cho việc bảo vệ môi trường để đạt được chi phí lớn
nhất. Việc đó đã làm ảnh hưởng đến môi trường sinh thái và môi trường sống của
các hộ dân xung quanh
Ví dụ: Công ty Viguato: Gây ô nhiễm nghiêm trọng cho khu dân cư
(21/11/2012) . Cư
dân sinh sống tại khu dân cư (KDC) Nam Long (KP.1, P.Tân Thuận Đông, Q.7,
TP.HCM) phải chịu đựng tiếng ồn, mùi hôi khó chịu và nước thải từ Công ty TNHH
sản xuất nông dược vi sinh Viguato.
Nguồn: www.tinnhanhmoitruong.vn
III – Đề xuất đối với các TNCs ở Việt Nam
1. Phương án thu hút các TNCs đầu tư vào VN:
- Tăng cường công tác hoạch
định chiến lược thu hút vốn đầu tư
Thiếu một quy hoạch tổng thể về
thu hút vốn đầu tư nước ngoài là vấn đề đáng lưu ý trong việc hoạt động của các
TNCa tại Việt Nam. Một số ngành đã không thu hút được các dự án đầu tư đáng kể
trong khi nhiều ngành đã đầu tư quá mức, vượt quá nhu cầu. Ngoài ra, đối với
một số dự án chúng ta còn quá dễ dãi, chấp nhận tràn lan nên số lượng các dự án
không có tính khả thi nhiều, tiêu tốn nhiều thời gian và chi phí. Vì vậy, cần
nâng cao hiệu quả của công tác hoạch định chiến lược thu hút vốn đầu tư nước
ngoài.
- Đồng bộ, ổn định và làm rõ
ràng hơn hệ thống luật pháp, chính sách
Nước ta chưa có một hệ thống
pháp luật đồng bộ, toàn diện nên việc bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp cả
trong và ngoài nước, cũng như quy định nghĩa vụ, trách nhiệm của họ chưa được
xác định nhất quán. Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao. Trong
nhiều trường hợp, luật pháp và chính sách thay đổi đột ngột làm đảo lộn các
phương án kinh doanh của các nhà đầu tư.
- Tăng cường công tác quản lý
của nhà nước đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ đó thúc đẩy sự đầu tư của
các TNCs
Cần chú trọng hơn trong việc
cấp giấy phép đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, hành vi sách nhiễu của một số cán
bộ thừa hành đã làm biến dạng chính sách, chủ trương của Nhà nước, làm nản lòng
các nhà đầu tư nước ngoài, bởi vậy cần tăng cường sự chặt chẽ trong việc phối
hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ quản
lý, công chức và công nhân kĩ thuật có trình độ
Một số cán bộ quản lý, công
chức và công nhân kĩ thuật trong các liên doanh còn yếu về trình độ chuyên môn,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập quốc
tế. Một số cán bộ trong các liên doanh chỉ chú ý đến thu nhập và lợi ích
cá nhân mà làm thiệt hại đến lợi ích chung. Do đó cần có những chương trình đào
tạo phù hợp nhằm nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên chức.
2. Phương án tăng cường thu
hút việc đầu tư của TNC vào phát triển các vùng kinh tế
ở Việt Nam để tăng trưởng đồng đều, cao và bền vững hơn:
- Trong giai đoạn trước
mắt cần tập trung thu hút đầu tư vào ba vùng kinh tế trọng điểm. Cần phải chấp
nhận phương án “phát triển mất cân đối”
trong thời gian đầu để tạo sự cân đối sau này nhằm mục tiêu tăng trưởng nhanh cho nền kinh tế trong ngắn hạn.
Ba vùng kinh tế trọng điểm làm đầu tầu
cho cả nền kinh tế nhưng không phát triển độc lập mà lên kết với các vùng khác
qua thị trường hàng hoá, thị trường lao động và thị trường các yếu tố sản xuất khác. Do đó, việc tập trung thu
hút đầu tư vào ba vùng này không những đáp
ứng được ngay yêu cầu của các nhà đầu tư mà còn có tác dụng thúc đẩy kinh tế của các vùng khác.
- Khuyến khích hơn nữa đầu tư vào lĩnh vực chế biến khoáng sản, chế biến nông - lâm sản, gắn với
các vùng nguyên vật liệu, trồng rừng và trồng
cây công nghiệp lâu năm, nhằm khai thác tiềm năng của các vùng lãnh thổ khác, khắc phục chênh lệch giữa
các vùng.
3. Kiến nghị khai thác các TNCs có hiệu
quả hơn:
- Tạo lập đối tác đầu tư trong nước:
Đối tác đầu tư có năng lực và uy tín
với nước ngoài chính là một nhân tố hấp dẫn các TNCs, tạo môi trường làm việc gần
gũi thân thiện hơn giữa ta với các TNCs. Một dự án đầu tư giữa các TNCs vào một
quốc gia nào đó mà thông qua đối tác đầu tư trong nước thì dự án đó sẽ tiến
hành tốt hơn. Vì vậy việc tạo lập đối tác đầu tư trong nước là vô cùng quan trọng.
- Hoàn thiện, đổi mới cơ chế quản lý:
Cơ chế quản lý và năng lực quản lý giữ vai trò quyết định
trong việc khai thác các TNCs có hiệu quả hay không và tạo lập được môi trường
đầu tư. Muốn khai thác các TNCs một cách có hiệu quả thì cần phải có những cơ
chế quản lý phù hợp.
Ví dụ: Toàn việc quá trình tiếp nhận
cho đến việc cấp phép đầu tư phải thực hiện theo nguyên tắc một cửa, một đầu mối.
Tăng cường kiểm tra giám sát tiến độ để kịp thời hỗ trợ, điều chỉnh đầu tư khi
cần thiết.
- Phát triển cơ sở hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền
kinh tế vì vậy muốn khai thác các TNCs một cách có hiệu quả hơn cả trước mắt và
lâu dài thì cần có một cơ sở hạ tầng
phát triển và đảm bảo hiện đại.
4. Kiến nghị để giải quyết vấn đề môi
trường:
- Cần đưa ra các hình phạt nghiêm khắc và mạnh mẽ đối với các
trường hợp làm ô nhiễm môi trường
- Tiến hành thanh tra, kiểm tra thường xuyên định kỳ đối với
các TNCs để kịp thời phát hiện và xử lý các trường hợp vi phạm
- Khen tặng, trao thưởng các TNCs hoạt động vì các lợi ích cộng
đồng, vì môi trường xanh – sạch – đẹp
IV – Kết luận
Các
TNCs đang và sẽ đóng một vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát
triển bền vững của quốc gia. Xu hướng di chuyển
luồng đầu tư từ các TNCs gần đây đang gia tăng trở lại các nước đang phát triển.
Nằm trong khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương (khu vực kinh tế năng động nhất trên thế giới), Việt Nam có lợi thế khách
quan do có các nguồn lực tự nhiên, vị trí địa
lý thuận lợi, đồng thời là thành viên của ASEAN với việc thực hiện Hiệp định ưu
đãi thuế quan - CEPT nên sẽ huy động và thu
hút được nhiều TNCs đến đầu tư, thúc đẩy tiến độ công nghiệp hóa hiện đại hóa
đất nước. Song bên cạnh những tác động tích cực, thì những bất lợi đặt ra cũng
là điều không thể tránh khỏi, do vậy, chúng ta cần phải thu hút đồng bộ các
giải pháp về cơ chế, chính sách, luật pháp... và
đáp ứng được các mục tiêu mà Đảng
và nhà nước đặt ra. Để nắm bắt cơ hội, để thu hút và khai thác những lợi thế
TNCs mang lại một cách hiệu quả nhất trên
các khu vực kinh tế, cần chỉ đạo
chặt chẽ, sáng tạo và học hỏi kinh nghiệm, áp dụng đồng bộ các biện pháp góp phần đưa Việt Nam phát triển
hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc, đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước, thúc đẩy Việt Nam
hoàn thành mục tiêu chiến lược năm 2020.
TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét