Ký ức thời sinh viên

Ký ức thời sinh viên

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013


CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI LIÊN XÔ VỀ MẶT QUÂN SỰ

A/ Bối cảnh lịch sử:
a/ Thế giới:
- Phe xã hội chủ nghĩa ngày càng lớn mạnh (Liên Xô và Trung Quốc) giương cao ngọn cờ chống đế quốc gây chiến, bảo vệ hòa bình, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc.
- Phong trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ trên thế giới.
VD:     - 1953 Ai Cập lật đổ chế độ thực dân Anh, Pháp
-1959  Cuba giành độc lập
-1960  năm Châu Phi: 17 nước Châu Phi giành độc lập
- Cuộc tổng khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản ngày càng trầm trọng
+ Mâu thuẫn giữa Mỹ và Tây Âu – Nhật Bản phát triển, nội bộ phe đế quốc phân hóa.
+ Sự phục hồi kinh tế nhanh chóng của Tây Âu và Nhật Bản chống lại sự khống chế của Mỹ và giành giật thị trường với Mỹ.
b/ Liên Xô
-        Liên Xô phát triển nhanh chóng mọi mặt và ngày càng lớn mạnh trên thế giới
-        Liên Xô giành sự quan tâm cho các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Việt Nam DCCH
c/ Nước ta:
-        Miền Bắc đi lên xã hội chủ nghĩa, Miền Nam tiếp tục kháng chiến chống Mỹ-Diệm
-        Sự thiếu thốn về vũ khí, chuyên gia vũ khí và các cố vấn quân sự.
-        Liên Xô ủng hộ chúng ta về mọi mặt, đặc biệt là về mặt quân sự.


B/ Nội dung và triển khai chính sách:
a/ Thái đội của Liên Xô với Việt Nam
1.     Thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam về mặt quân sự trong giai đoạn 1954- 1960:
-              Trong giai đoạn đầu, thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam vẫn chưa được thể hiện rõ ràng.
   -           Liên Xô chủ trương giữ nguyên trạng ở miền Nam và chủ trương hoà bình để thi hành hiệp định Geneve. Liên Xô muốn Việt Nam phấn đấu giành thắng lợi trong xây dựng miền Bắc để động viên và thúc đẩy đấu tranh chính trị ở miền Nam, giải quyết vấn đề miền Nam bằng thương lượng, bằng con đường hoà bình. Do vậy Liên Xô ít đề cập đến đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị ở miền Nam. 


2. Thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam về mặt quân sự trong giai đoạn 1960- 10/1964:
    -      Thái độ của Liên Xô đối với Việt Nam xấu hẳn đi kể từ giữa năm 1963, sau khi Việt Nam công khai phát biểu một số quan điểm về các vấn đề quốc tế và sau khi Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thăm Việt Nam vào tháng 5/1963.
    -      Cũng như giai đoạn trước, Liên Xô chủ trương giải quyết vấn đề miền Nam Việt Nam bằng phương pháp hoà bình, không muốn Việt Nam phát động cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam, chỉ muốn Việt Nam tập trung sức lực xây dựng CNXH ở miền Bắc và bằng cách đó tác động vào diễn biến của tình hình miền Nam..
=> Liên Xô hầu như không ủng hộ Việt Nam trong giai đoạn này về quân sự và đây là giai đoạn xấu nhất trong lịch sử hai nước.

3.Giai đoạn 11/1964-1/1973:
    -    Liên Xô thay đổi chính sách, ùng hộ Việt Nam tích cực và mạnh mẽ.
       Trong chiến tranh chống Mỹ Liên Xô đã viện trợ cho Việt Nam nhiều xe tăng các loại từ T-34 đến T-54. 2.000 xe tăng, 700 máy bay cơ động, 7.000 súng cối, tên lửa, sung các loại, đạn dược, các chiến hạm, cùng hơn 100 trực thăng và đã được Liên Xô chuyển giao cho Hà Nội, như là một nguồn viện trợ không hoàn lại và hữu nghị với Việt Nam.

=>Đến giai đoạn này Liên Xô đã trở thành nước giúp  đỡ Việt Nam nhiều nhất. Sự giúp đỡ này đã góp phần quan trọng vào thắng lợi tiếp theo của nhân dân Việt Nam.

4. Quan hệ Việt -Xô giai đoạn 1/1973-4/1975:
    -     Liên Xô đặc biệt quan tâm đến Việt Nam, đồng thởi nhắc nhở Việt Nam cảnh giác trong quan hệ với Mỹ và dò xét quan hệ Việt Nam – Trung Quốc.
    -     Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, Liên Xô bộc lộ ý muốn tăng cường quan hệ mọi mặt với Việt Nam.. Về quân sự, Liên Xô muốn đặt hệ thống cố vấn trong quân đội Việt Nam, tích cực xây dựng cảng và hạm đội đánh cá, xây dựng trạm động đất. 


-        Tin tưởng vào các biện pháp quân sự mà Liên Xô đề ra:
Trong thời gian đầu sau hiệp định Geneve, Liên Xô chủ trương giữ nguyên trạng ở miền Nam và chủ trương hoà bình để thi hành hiệp định Geneve. Không muốn Việt Nam phát động cuộc đấu tranh vũ trang ở miền Nam Việt Nam, chỉ muốn Việt Nam tập trung sức lực xây dựng CNXH ở miền Bắc và bằng cách đó tác động vào diễn biến của tình hình miền Nam. Trong thời gian này, quân ta ở Miền Nam đã bị thảm sát rất nhiều dưới chế độ Mỹ Diệm.
         Sau này, quân ta đã biết cân nhắc hơn về các biện pháp quân sự mà Liên Xô đưa ra  để áp dụng phù hợp đối với hoàn cảnh đất nước.
-        Kêu gọi sự viện trợ từ phía Liên Xô:
VN tận dụng triệt để sự giúp đỡ của Liên Xô và liên tục kêu gọi viện trợ bổ sung từ Liên Xô các trang thiết bị, vũ khí phục vụ trong quân sự, cũng như các cố vấn quân sự.
-        Cử các cán bộ, chiến sĩ của ta sang Liên Xô đào tạo về sử dụng vũ khí của Liên Xô:
Vũ khí hiện đại bản thân chúng ko đáp ứng được tất cả những nhu cầu của Bắc VN. HN cần những cán bộ quân sự được đào tạo tốt, những người có kinh nghiệm vận hành các vũ khí do Liên Xô cung cấp. Điều này làm cho Việt Nam Dân chú Cộng hòa phụ thuộc vào các cố vấn Liên Xô và đòi hỏi các quân nhân Bắc VN cần phải được gửi sang Liên Xô đào tạo. Mỗi năm trong cuộc chiến tranh Việt Nam có hàng nghìn lính và sỹ quan của Việt Nam được đào tạo tại các trường quân sự của Liên Xô. Năm 1966 theo một báo cáo của đại sứ quán Liên Xô, 2600 người Việt Nam được gửi tới đào tạo tại Liên Xô để phục vụ cho ngành không quân và phòng không. Năm 1966 chương trình đào tạo đã xây dựng được đội ngũ cán bộ cho bốn trung đoàn phòng không và kỹ thuật viên cho một trung đoàn không quân và hàng chục phi công trong số những người dân Bắc VN tham gia quân đội nhân dân Việt Nam.

-        Sử dụng một phần vũ khí Liên Xô viện trợ và một phần dự trữ để sử dụng trong lâu dài:
Chúng ta xác định cuộc kháng chiến chống Mỹ ngụy còn lâu và còn dài mà nguồn iện trợ từ Liên Xô không phải lúc nào cũng có, chính vì vậy ta xác định phải dự trữ một phần vũ khí mà Liên Xô viện trợ sang để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh. Việt Nam kêu gọi nguồn viện trợ lớn từ Liên Xô không chỉ để phục vụ trong chiến tranh hay tái thiết các công trình mẳ dụng một phần để dự trữ cho kháng chiến lâu dài trong nước

C/ Ý nghĩa, bài học kinh nghiệm

I.                Ý nghĩa:
1.     Góp phần giải phóng dân tộc:
Viện trợ quân sự của LX là một trong những nhân tố có ý nghĩa quan trọng với cách mạng VN. Sự xuất hiện của các vũ khí hiện đại, có uy lực mạnh trên chiến trường VN đã góp phần đưa cách mạng VN nhanh chóng đến thành công. Nếu không có nguồn viện trợ này, cuộc kháng chiến chống mỹ của nhân dân ta không tránh khỏi những khó khăn và có thể còn kéo dài hơn nữa.

2.     Thắt chặt mỗi quan hệ Việt – Xô:
LX đã ủng hộ cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của nhân dân Vn một cách toàn diện, tận tình từ mọi phía. Sự giúp đỡ của nhân dân Xô Viết là biểu tượng của tình đoàn kết chiến đấu giữa 2 dân tộc. Điếu đó chứng tỏ cuộc chiến đấu của nhân dân VN không đơn độc.

3.     Nâng cao trình độ chuyên môn của ta:
ta đã có được đội ngũ cán bộ được đào tạo chuyên môn cao về khoa hoc kĩ thuật nói chung và về quân sự nói riêng.

II.              Bài học kinh nghiệm:
  1. Không nên tin tưởng tuyệt đối:
Mặc dù giúp đỡ Việt Nam, nhưng Liên Xô vẫn không muốn “hy sinh” chiến lược hòa dịu của họ trong mối quan hệ với Hoa Kỳ. Với tư cách là thành trì của phe xã hội chủ nghĩa và là một cực đối trọng của Mỹ, Liên Xô mong muốn thông qua cuộc chiến tranh này thực hiện những mục đích đối ngoại có tính toàn cầu, chiến lược của mình. Chỉ mãi tới cuối năm 1964, sau khi Mỹ leo thang mở cuộc tấn công bằng không quân ra miền Bắc, sự quan tâm của Liên Xô đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam mới thực sự bắt đầu.
Từ đó, ta có thể thấy, không phải Liên Xô luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ cho Việt Nam từ đầu tới cuối, mà họ luôn thông qua cuộc chiến tranh của ta để có thể đạt được một mục đích đối ngoại nào đó.

  1. Tận dụng triệt để sự hỗ trợ của các nước xung quanh:
Mặc dù mối quan hệ giữa Liên Xô và Trung Quốc luôn tồn tại những mâu thuẫn, nhưng ta đã khéo léo trung hòa và tận dụng triệt để sự hỗ trợ của 2 nươc này. Với bề dày kinh nghiệm và uy tín của một chiến sĩ cộng sản, Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để bảo vệ phe xã hội chủ nghĩa, hàn gắn rạn nứt Xô - Trung.
Có thể nói rằng, nhờ có sự hỗ trợ đắc lực từ nguồn viện trợ to lớn và toàn diện của Trung Quốc và Liên Xô, Kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm lần thứ nhất của Việt Nam đã căn bản hoàn thành. Trên cơ sở đó, miền Bắc đã chuẩn bị cả vật chất và tinh thần trở thành hậu phương cách mạng của cả nước, sẵn sàng đối phó với hành động leo thang chiến tranh và đánh bại chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ. Một lần nữa, ngoại giao lại thể hiện vai trò đắc lực góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cách mạng nước ta.
  1. Tránh sử dung lãng phí viện trợ của đồng minh gây mất niềm tin của họ cho chúng ta
Tính đến năm 1967, tổng viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam là khoảng hơn 1,5 tỷ đô la. Đây là một con số viện trợ rất lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của nhân dân Việt Nam.
Tuy nhiên, theo một số tài liệu của Liên Xô, có đề cập tới việc ta đã lãng phí sử dụng vũ khí viện trợ của họ, sử dụng không đúng cách, dẫn đến hiểu nhầm về chất lượng của vũ khí mà Liên Xô viện trợ cho ta. Không bàn cãi rằng đây có phải là nhận xét đúng hay không, nhưng từ điều này, ta cũng có thể rút ra một bài học kinh nghiệm quý giá rằng chúng ta phải tận dụng triệt để, có ích nguồn viện trợ của đồng minh, tránh lãng phí chúng, dẫn đến gây mất niềm tin, mất tinh thần đoàn kết của họ cho chúng ta.
  1. Luôn bồi dưỡng cán bộ, nâng cao kĩ năng chuyên môn để đáp ứng với nhu cầu của cuộc chiến
Mỹ là một siêu cường quốc với những trang bị, vũ khí hiện đại tối tân. Đây chính là một yếu thế rõ rệt của nước ta trong cuộc chiến tranh này, vì nước ta còn lạc hậu, trang bị vũ khí thô sơ, nghèo nàn, thiếu thốn. Vì vậy, để có thể đương đầu với một siêu cường quốc như Mỹ, chúng ta ngoài tinh thần độc lập tự chủ, sự đoàn kết toàn dân tộc, ý chí quyết tâm đánh bại kẻ thù, còn cần phải trau dồi, nâng cao kĩ năng chuyên môn, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ chất lượng cao để có thể đáp ứng nhu cầu của cuộc chiến, để có thể dẫn dân tộc ta tới thắng lợi vinh quang, giải phóng dân tộc, khẳng định nền độc lập quốc gia và chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.


TRỊNH XUÂN THỦY - CT38B - HỌC VIỆN NGOẠI GIAO


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét